Tóm tắt. Nội dung bài báo đề cập đến thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học
của giảng viên đại học sư phạm được thể hiện ở 3 mặt gồm: “Kĩ năng nghiên cứu
khoa học giáo dục”, “Kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục, về nghiên cứu khoa học”
và “Kĩ năng phổ biến/ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục vào giảng
dạy/thực tiễn”. Trên cơ sở thực trạng này, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến
nghị về giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục cho giảng viên
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học sư phạm.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục của giảng viên đại học sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 142-153
This paper is available online at
NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC
CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Nội dung bài báo đề cập đến thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học
của giảng viên đại học sư phạm được thể hiện ở 3 mặt gồm: “Kĩ năng nghiên cứu
khoa học giáo dục”, “Kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục, về nghiên cứu khoa học”
và “Kĩ năng phổ biến/ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục vào giảng
dạy/thực tiễn”. Trên cơ sở thực trạng này, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến
nghị về giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục cho giảng viên
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học sư phạm.
Từ khóa: Nghiên cứu khoa học giáo dục, năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục.
1. Mở đầu
Trong phát triển đại học, ưu tiên số một là phát triển đội ngũ, trong đó, đối với đội
ngũ giảng viên đặc biệt chú ý tới vai trò giảng dạy và vai trò nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ. Hai nhiệm vụ này được coi ngang nhau, đôi khi nghiên cứu khoa học phải
được coi trọng hơn. Nghị quyết 14 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã đưa ra một trong những mục tiêu cụ thể là: Phát triển các
chương trình giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và định hướng nghề nghiệp -
ứng dụng; Nâng cao rõ rệt quy mô và hiệu quả hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo
dục đại học. Các trường đại học lớn phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học mạnh của
cả nước [3].
Dạy học, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng là ba nhiệm vụ truyền thống của giảng
viên đại học. Vì thế, giảng viên đại học cần phải vừa là một giảng viên và vừa là một nhà
nghiên cứu sáng tạo đồng thời phải là một người đóng góp sức mình cho sự phát triển của
nhà trường và của cộng đồng. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong tình hình
mới các kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục còn bị thiếu hụt với các mức độ khác nhau
ở từng giảng viên [1].
Liên hệ: Đào Thị Oanh, e-mail: phanh1001@yahoo.com
142
Năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục của giảng viên Đại học Sư phạm
Vì thế, đánh giá thực trạng năng lực nghề nghiệp của giảng viên đại học sư phạm
trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ hiện nay và đề xuất một hệ thống giải pháp toàn diện,
khả thi, nhằm nâng cao các năng lực trên ở giảng viên, qua đó giúp họ phát triển năng
lực nghề nghiệp nói chung, đáp ứng yêu cầu đào tạo giáo viên trong giai đoạn mới là một
nhiệm vụ cấp bách và cần thiết. Bài viết này đề cập đến thực trạng năng lực nghiên cứu
khoa học giáo dục của giảng viên đại học sư phạm và đề xuất một số biện pháp phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục cho giảng viên đại học sư phạm.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí luận về năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục của giảng viên
đại học sư phạm
- Khái niệm nghiên cứu khoa học giáo dục: Nghiên cứu KHGD là một hoạt động
nghiên cứu khoa học đặc thù trong lĩnh vực giáo dục. Đó là một hoạt động có tính hệ
thống, xuất phát từ những bất cập cần được giải quyết trong hoạt động giáo dục, hay nhu
cầu tìm hiểu nhằm giải thích sâu sắc về cấu trúc và cơ chế phát triển của một hệ thống
giáo dục nào đó, hay nhằm phát hiện ra những khái niệm, những quy luật mới của thực
tiễn giáo dục mà trước đó chưa ai biết.
- Khái niệm năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục: Năng lực nghiên cứu KHGD
của giảng viên ĐHSP là sự thực hiện có kết quả một công trình nghiên cứu khoa học của
giảng viên ĐHSP trong lĩnh vực giáo dục, thể hiện ở sự vận dụng các kiến thức, kĩ năng,
kinh nghiệm thực tiễn vào quá trình tổ chức triển khai và sử dụng kết quả nghiên cứu
nhằm cải thiện thực tiễn giáo dục và xã hội.
Năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học sư phạm gồm 3 mặt biểu
hiện, cụ thể là [2]: “Kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục”, “Kinh nghiệm thực tiễn về
giáo dục, về nghiên cứu khoa học” và “Kĩ năng phổ biến/ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học giáo dục vào giảng dạy/thực tiễn”. Các mặt biểu hiện được dựa vào để xây dựng
một thang đo dành cho giảng viên đại học sư phạm với 5 mức độ đánh giá khác nhau,
từ mức “Thấp” nhất (“Chưa làm được”) đến mức “Cao” nhất (“Làm tốt/thành thạo”), với
điểm quy ước về mặt định lượng tương ứng với 1 điểm và 5 điểm. Các mức khác nằm ở
khoảng giữa các mức này với điểm tương ứng là 2, 3, 4 điểm. Kết quả bước đầu được đánh
giá dựa trên điểm trung bình đạt được ở mỗi biểu hiện trên toàn bộ mẫu khách thể. Qua
đó có thể cung cấp bức tranh sơ bộ về một số khía cạnh trong năng lực nghiên cứu khoa
học giáo dục của giảng viên đại học sư phạm hiện nay.
2.2. Thực trạng năng lực nghiệp vụ sư phạm của giảng viên đại học
sư phạm
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu năng lực nghiệp vụ sư phạm trên 416 giảng viên
(trong độ tuổi chủ yếu từ 30 đến 50) đang giảng dạy và 600 sinh viên đang học tập tại các
khoa Toán, Vật lí, Hóa học, Ngữ văn, Lịch sử, Tâm lí-Giáo dục của các trường Đại học
143
Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung
Sư phạm Hà Nội, Thái Nguyên, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh, Khoa Sư phạm - Đại học Tây
Bắc, Khoa Sư phạm - Đại học Cần Thơ với các phương pháp điều tra (sử dụng thang tự
đánh giá và bảng hỏi), phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp đàm thoại [2].
Dưới đây là kết quả nghiên cứu của giảng viên về năng lực nghiệp vụ sư phạm và
về những biểu hiện cụ thể từng mặt của năng lực này:
2.2.1. Nhận thức của giảng viên về vai trò của nghiên cứu khoa học giáo dục trong
nghề nghiệp của giảng viên đại học sư phạm
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn giảng viên (78%) nhận thức được tầm quan
trọng và lợi ích của nghiên cứu khoa học trong giảng dạy và thăng tiến nghề nghiệp. Cụ
thể là:
Nghiên cứu khoa học là một trong những con đường tốt nhất để nâng cao trình độ
nghiệp vụ và phát triển năng lực sư phạm của mỗi người làm giáo dục. Nghiên cứu có tầm
quan trọng đối với giảng viên đại học trên ba bình diện:
Thứ nhất, là nâng cao chất lượng giảng dạy. Các kết quả nghiên cứu của giáo viên
hoặc những người khác trong cùng lĩnh vực tạo ra những cơ sở để cập nhật nội dung của
bài giảng và thực hành. Chỉ có thể có các bài giảng chất lượng cao, nếu người giảng viên
thường xuyên tham gia nghiên cứu khoa học, nắm bắt kịp thời tri thức mới về ngành nghề,
về môn học mình giảng dạy. Ngoài ra, nếu người giảng viên có phẩm chất, năng lực của
người làm nghiên cứu thì sẽ tự nâng cao năng lực giảng dạy, biết cách kích thích sinh viên
tìm tòi khám phá cái mới, khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong sinh viên, biết cách hướng
dẫn sinh viên tự học, tập sự làm công tác nghiên cứu, rèn luyện năng lực tư duy khoa học
cho sinh viên, đưa dần sinh viên vào môi trường khoa học, nắm bắt kịp thời tiến bộ của
nghề nghiệp.
Thứ hai, việc tham gia nghiên cứu đảm bảo giảng viên có khả năng hướng dẫn việc
nghiên cứu của sinh viên có hiệu quả hơn.
Thứ ba, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của nghiên cứu đối với giảng viên đại học là
việc cần phải làm với mục đích thăng tiến, đây là một trong những điều kiện và nền tảng
quan trọng để giúp GV nâng cao trình độ, học vị. Việc đề bạt lên một vị trí cao hơn trong
nhà trường đại học dựa vào sự đóng góp kiến thức thông qua nghiên cứu và các công trình
công bố.
2.2.2. Tự đánh giá của giảng viên về năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục
Giảng viên của trường đại học sư phạm chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy chưa
đủ để có được sản phẩm giáo viên chất lượng cao. Giảng viên còn phải là những nhà khoa
học năng động, say mê với các công trình nghiên cứu của mình, trong đó có các nghiên
cứu về khoa học giáo dục bởi giảng dạy và nghiên cứu là hai nhiệm vụ quan trọng của
người giảng viên đại học sư phạm.
Dưới đây là kết quả bước đầu trong tự đánh giá của giảng viên đại học sư phạm về
năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục nói chung cũng như những biểu hiện cụ thể ở mặt
144
Năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục của giảng viên Đại học Sư phạm
kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Kết quả tự đánh giá của giảng viên về năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục ở
mức độ “trung bình” và phân hóa cao, trong đó, thấp nhất là “Phổ biến, ứng dụng kết quả
nghiên cứu vào giảng dạy, thực tiễn” (2,52đ; SD = 1,02);
- Có sự phân hóa khá cao ở phần lớn kết quả tự đánh giá năng lực nghiên cứu khoa
học giáo dục của giảng viên ở 3 mặt (độ lệch chuẩn dao động từ 0,9đ đến 1,02đ), chứng
tỏ còn có những giảng viên tự đánh giá thấp hơn nhiều so với mức điểm trung bình của
toàn mẫu nghiên cứu (Bảng 1).
Bảng 1. Tự đánh giá của giảng viên
về năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục (N = 416)
STT Các mặt biểu hiện chủ yếu Điểm trungbình cộng
Độ lệch
chuẩn
1 Kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục 3,28 0,928
2
Kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục, về nghiên
cứu khoa học
2,80 1,006
3
Kĩ năng phổ biến/ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học giáo dục vào giảng dạy/thực tiễn
2,52 1,027
(Điểm trung bình thấp nhất là 1, cao nhất là 5)
Xem xét kết quả tự đánh giá đối với các biệu hiện cụ thể về năng lực nghiên cứu
khoa học giáo dục thấy rất rõ khuynh hướng phân hóa nêu trên. Điều này gợi ý nhiều vấn
đề liên quan đến việc phát triển kế hoạch bồi dưỡng cho giảng viên, đặc biệt các giảng
viên trẻ về kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục.
* Về “kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục”
- Giảng viên đại học sư phạm thực hiện các hoạt động “Sưu tầm, hệ thống hóa tư
liệu phục vụ nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau”; “Khai thác được tư liệu từ các trang
web có liên quan đến đề tài nghiên cứu” và “Lựa chọn phương pháp nghiên cứu khoa học
phù hợp nội dung đề tài” ở mức độ tốt nhất (3,83đ và 3,80đ).
- Bên cạnh đó, giảng viên thực hiện chưa tốt và chưa hiệu quả ở các hoạt động
“Viết dự án xin tài trợ” (2,46đ); “Hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh
viên, học viên và nghiên cứu sinh”(2,92đ và 3,06); “Tổ chức nhóm nghiên cứu hiệu quả”
(3,10đ) và “Sử dụng các phần mềm phân tích, đánh giá định lượng kết quả nghiên cứu
thực tiễn (SPSS...)” (3,18đ), đây là các khâu quan trọng trong quy trình nghiên cứu khoa
học giáo dục.
Việc hiểu biết các đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi sinh viên đóng vai trò cực kì quan
trọng trong quá trình dạy học, giáo dục, điều này giúp giảng viên có những tác động phù
hợp về mặt sư phạm nhằm tác động mạnh mẽ vào vùng phát triển gần nhất của sinh viên,
làm cho các em trở nên tích cực, tự giác trong quá trình tự giáo dục. Hơn nữa những kiến
thức về tâm lí lứa tuổi giúp cho giảng viên có cách ứng xử phù hợp với các em, đưa ra
145
Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung
được những yêu cầu hợp lí về mặt sư phạm nhằm phát triển bản thân người học. Nắm vững
các đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của sinh viên còn giúp cho giải thích kết quả nghiên cứu
khoa học hợp lí, sát với thực tiễn và có sức thuyết phục cao trong công tác nghiên cứu
khoa học giáo dục. Bên cạnh đó, việc hiểu biết, nắm vững các kiến thức về giáo dục học
giúp cho người giảng viên tổ chức tốt quá trình giáo dục, phối hợp có hiệu quả các nguồn
lực giáo dục, góp phần tích cực vào quá trình giáo dục, hoàn thiện nhân cách người sinh
viên. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, kĩ năng “vận dụng các tri thức về Tâm lí học Sư
phạm vào giải thích kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục”; “Vận dụng được các tri thức
về Giáo dục học vào tổ chức triển khai nghiên cứu thực nghiệm khoa học giáo dục” và
“vận dụng được các kiến thức về lí luận dạy học vào tổ chức nghiên cứu thực nghiệm khoa
học giáo dục” ở giảng viên đại học sư phạm còn gặp nhiều khó khăn (3,04đ và 3,06đ)
(Bảng 2).
Bảng 2. Kết quả tự đánh giá của giảng viên
về “Kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục” (N = 416)
STT Kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục Điểm TBcộng
Độ lệch
chuẩn
1
Phát hiện vấn đề nghiên cứu xuất phát từ thực
tiễn giảng dạy của bản thân
3,61 1,113
2
Xây dựng thuyết minh đề tài/đề cương nghiên
cứu có sức thuyết phục
3,56 1,155
3
Tập hợp lực lượng nghiên cứu phù hợp, đáp ứng
yêu cầu đối với một đề tài nghiên cứu khoa học
giáo dục
3,37 1,198
4
Sưu tầm, hệ thống hóa tư liệu phục vụ nghiên
cứu từ nhiều nguồn khác nhau
3,80 1,128
5
Khai thác được tư liệu từ các trang web có liên
quan đến đề tài nghiên cứu
3,80 1,102
6
Lựa chọn phương pháp nghiên cứu khoa học
phù hợp nội dung đề tài
3,83 1,092
7
Thiết kế được các phép đo để thu thập tư liệu
thực tiễn
3,35 1,159
8
Sử dụng được các phần mềm phân tích, đánh
giá định lượng kết quả nghiên cứu thực tiễn
(SPSS...)
3,18 1,248
9
Sử dụng được các kĩ thuật phân tích, đánh giá
định lượng và định tính kết quả nghiên cứu thực
tiễn
3,30 1,209
10 Viết dự án xin tài trợ có sức thuyết phục 2,46 1,283
146
Năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục của giảng viên Đại học Sư phạm
11
Biết viết báo cáo khoa học tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài 3,38 1,251
12
Hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa học
cho sinh viên
2,92 1,575
13
Hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa học
cho học viên cao học, nghiên cứu sinh
3,06 1,368
14
Biết tổ chức, phối hợp cùng đồng nghiệp trong
nghiên cứu khoa học giáo dục
3,04 1,293
15
Biết tổ chức, phối hợp các lực lượng giáo dục
khác nhau trong nghiên cứu khoa học giáo dục
(như: giáo viên, cán bộ quản lí, phụ huynh học
sinh ở trường phổ thông...)
3,09 1,271
16 Tổ chức nhóm nghiên cứu hiệu quả 3,10 1,190
17
Tổ chức triển khai nghiên cứu khoa học giáo dục
phù hợp điều kiện, hoàn cảnh 3,27 1,167
18
Vận dụng được các tri thức về phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
giáo dục vào triển khai đề tài/ nhiệm vụ nghiên
cứu
3,57 1,250
19
Xác định đúng phạm vi, giới của đề tài nghiên
cứu
3,16 1,296
20
Vận dụng được các tri thức về Tâm lí học Sư
phạm vào giải thích kết quả nghiên cứu khoa
học giáo dục
3,04 1,276
21
Vận dụng được các tri thức về Giáo dục học vào
tổ chức triển khai nghiên cứu thực nghiệm khoa
học giáo dục
3,14 1,194
22
Vận dụng được các kiến thức về lí luận dạy học
vào tổ chức nghiên cứu thực nghiệm khoa học
giáo dục
3,06 1,335
23
Vận dụng được các kiến thức về quản lí đào tạo
vào tổ chức triển khai quá trình nghiên cứu khoa
học giáo dục
3,35 1,240
24
Thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học theo quy
trình, giám sát, điều chỉnh tiến độ thực hiện
3,26 1,318
25
Tổ chức đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục
gắn kết với điều kiện thực tiễn
3,33 1,224
(Điểm trung bình thấp nhất là 1, cao nhất là 5)
147
Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung
Nhìn chung, giảng viên đại học sư phạm có ít “kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục,
về nghiên cứu khoa học”. Số giảng viên “tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước, cấp Bộ/ Bộ trọng điểm, hướng dẫn giáo viên phổ thông viết sáng kiến kinh nghiệm”
còn khiêm tốn, và ở mức dưới trung bình (1,77đ). Trong số các giảng viên được điều tra,
chỉ có 11,7% giảng viên tham gia nghiên cứu đề tài cấp nhà nước và 22,4% giảng viên có
nghiên cứu đề tài cấp Bộ và cấp Trường. Thực tế này có nguyên nhân chủ quan và khách
quan. Về phía chủ quan có thể nhận thấy là nhìn chung năng lực nghiên cứu khoa học của
giảng viên còn nhiều hạn chế còn về khách quan là cơ chế nghiên cứu khoa học còn nhiều
bất cập nên đã hạn chế sự tiếp cận của các giảng viên đến với các đề tài cấp Bộ, cấp Nhà
nước. Ngay cả những đề tài nghiên cứu cấp Trường nay cũng bị hạn chế về số lượng nên
hằng năm không có nhiều giảng viên được tham gia nghiên cứu khoa học.
Phần lớn giảng viên có kinh nghiệm tham gia hướng dẫn sinh viên làm các đề tài
nghiên cứu khoa học và tham gia nghiên cứu các đề tài về khoa học cơ bản thuộc chuyên
ngành đang giảng dạy (3,67đ và 3,65đ) (Bảng 3).
Bảng 3. Kết quả tự đánh giá của giảng viên về “Kinh nghiệm
thực tiễn về giáo dục, về nghiên cứu khoa học” (N = 416)
STT Kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục, vềnghiên cứu khoa học
Điểm TB
cộng
Độ lệch
chuẩn
1
Có đề tài nghiên cứu về khoa học cơ bản
thuộc chuyên ngành đang giảng dạy
3,65 1,240
2
Hướng dẫn sinh viên làm đề tài nghiên
cứu khoa học 3,67 1,306
3
Hướng dẫn giáo viên phổ thông viết sáng
kiến kinh nghiệm
2,30 1,469
4
Tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Nhà nước
1,77 1,407
5
Tham gia các đề tài nghiên cứu cấp Bộ/Bộ
trọng điểm/Trường
2,46 1,687
6
Tham gia các hoạt động nghiên cứu của
các tổ chức phi chính phủ, các đoàn thể
xã hội
3,01 1,678
(Điểm trung bình thấp nhất là 1, cao nhất là 5)
* Về kĩ năng phổ biến/ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục vào giảng
dạy/thực tiễn, giảng viên sư phạm tự đánh giá ở mức dưới trung bình và có sự phân hóa lớn
về kĩ năng này ở giảng viên sư phạm (độ lệch chuẩn dao động từ 1,2đ đến 1,6đ) (Bảng 4).
148
Năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục của giảng viên Đại học Sư phạm
Bảng 4. Kết quả tự đánh giá của giảng viên về “Kĩ năng phổ biến/ứng dụng
kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục vào giảng dạy/thực tiễn” (N = 416)
STT Kĩ năng phổ biến/ứng dụng kết quả nghiên cứukhoa học giáo dục vào giảng dạy/thực tiễn
Điểm TB
cộng
Độ lệch
chuẩn
1
Có bài đăng tải trên tạp chí chuyên ngành KHGD
ở nước ngoài.
2,13 1,561
2
Có bài đăng tải trên tạp chí chuyên ngành về
KHGD ở trong nước. 2,82 1,642
3
Có báo cáo tham luận tại hội thảo khoa học ở nước
ngoài về KHGD.
1,77 1,346
4
Có báo cáo tham luận tại hội thảo khoa học trong
nước về KHGD.
2,83 1,657
5
Cập nhật kết quả nghiên cứu KHGD vào bài giảng
cho sinh viên, học viên cao học.
1,78 1,307
6
Đưa kết quả nghiên cứu KHGD vào tài liệu đọc
thêm cho sinh viên, học viên cao học.
2,67 1,593
7
Cập nhật kết quả nghiên cứu KHGD vào giáo trình
môn học.
2,92 1,442
8
Cải tiến phương pháp dạy học dựa trên kết quả
nghiên cứu KHGD.
2,84 1,490
9
Sử dụng kết quả nghiên cứu KHGD để giáo dục
các giá trị nghề nghiệp cho sinh viên.
2,87 1,394
10
Chuyển kết quả nghiên cứu KHGD của bản thân
thành tài liệu tham khảo phục vụ học tập cho sinh
viên, học viên cao học, NCS.
3,12 1,337
11
Chuyển kết quả nghiên cứu KHGD của bản thân
thành tài liệu bồi dưỡng/tập huấn nâng cao năng
lực dạy học cho giáo viên phổ thông.
2,82 1,368
12
Chuyển kết quả nghiên cứu KHGD của bản thân
thành tài liệu phổ biến khoa học dành cho giáo viên
phổ thông.
2,62 1,436
13
Chuyển kết quả nghiên cứu KHGD của bản thân
thành sách phổ biến khoa học dành cho sinh
viên/học sinh phổ thông/cha mẹ học sinh.
2,18 1,369
14
Tham gia các chương trình tư vấn trên các phương
tiện thông tin đại chúng về các vấn đề có liên quan
đến kết quả nghiên cứu KHGD của bản thân/của
đồng nghiệp.
1,93 1,282
(Điểm trung bình thấp nhất là 1, cao nhất là 5)
149
Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung
Điều này thể hiện cụ thể qua các hoạt động:
- Giảng viên đại học sư phạm phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục chủ
yếu trên các tạp chí chuyên ngành và hội thảo khoa học về khoa học giáo dục ở trong nước
(2,83đ); Một số giảng viên đã cập nhật kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục vào giáo
trình môn học (2,92đ).
- Việc “đăng tải bài trên tạp chí chuyên ngành, báo cáo tham luận tại hội thảo khoa
học KHGD ở nước ngoài” (1,77đ); “Cập nhật kết quả nghiên cứu KHGD vào bài giảng
cho sinh viên, học viên cao học” (1,78đ) và “Tham gia các chương trình tư vấn trên các
phương tiện thông tin đại chúng về các vấn đề có liên quan đến kết quả nghiên cứu KHGD
của bản thân/của đồng nghiệp” (1,93) của giảng viên ở mức kém nhất.
Số liệu ở Bảng 5, cho thấy số lượng giảng viên có kết quả nghiên cứu khoa học
công bố ở các hình thức còn rất ít, đặc biệt là số lượng giảng viên có các ấn phẩm xuất
bản ở nước ngoài, có 19,5% giảng viên có bài báo khoa học cơ bản và chỉ có 5,7% giảng
viên có bài báo khoa học giáo dục đăng ở tạp chí nước ngoài. Số lượng giảng viên là tác
giả và đồng tác giả của ấn phẩm sách và giáo trình ở Việt Nam chiếm khoảng 2,3%-8,0%
(đối với khoa học cơ bản) và chiếm khoảng 2,3%-8,0% (đối với khoa học giáo dục) (Bảng
5).
Bảng 5. Số lượng giảng viên có kết quả nghiên cứu khoa học công bố ở các hình thức
STT Hình thức công bố KH cơ bản(%)
KH giáo
dục (%)
1
Sách xuất bản trên phạm vi quốc tế mà Thầy/Cô là
tác giả duy nhất 0,0 1,1
2
Sách xuất bản trên phạm vi quốc tế mà Thầy/Cô là
đồng tác giả