Nghiên cứu, đánh giá các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lao động và tác hại nghề nghiệp ở các cơ sở giết mổ gia cầm theo dây chuyền công nghiệp

2.1. Nhận diện các yếu tố nguy hiểm và có hại Hiện nay, việc giết mổ gia cầm theo hướng công nghiệp ở nước ta được tiến hành tập trung trên các dây chuyền bán tự động (bao gồm công nghệ nhập từ nước ngoài và cả sản phẩm chế tạo tại Việt Nam). Việc tiến hành khảo sát thực tế cho phép nhận diện được một số yếu tố nguy hiểm và có hại tại nơi làm việc có thể gây ra tai nạn lao động và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của công nhân trong dây chuyền giết mổ gia cầm. Bảng dưới đây chỉ ra những yếu tố nguy hiểm và có hại tại các cơ sở có hoạt động giết mổ gia cầm theo dây chuyền công nghiệp ở phía Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu, đánh giá các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lao động và tác hại nghề nghiệp ở các cơ sở giết mổ gia cầm theo dây chuyền công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
114 Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sản phẩm thịt gia cầm là một trong những mặt hàng thiết yếu của đời sống. Do vậy, giết mổ gia cầm là hoạt động thường nhật. Cho đến nay, việc giết mổ gia cầm thường được tiến hành theo phương pháp thủ công truyền thống. Phương pháp này hiện nay không còn phù hợp, do không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người lao động và cộng đồng. Một số cơ sở giết mổ gia cầm hiện nay đang thay thế phương pháp thủ công bằng dây truyền công nghiệp khép kín. Việc sử Nghiên cứu, đánh giá các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lao động và tác hại nghề nghiệp ở các cơ sở giết mổ gia cầm theo dây chuyền công nghiệp dụng dây truyền công nghiệp có nhiều ưu điểm hơn trong việc bảo vệ môi trường công cộng. Tuy vậy, bên cạnh đó một số bất cập trong an toàn vệ sinh lao động vẫn còn tồn tại. Để làm sáng tỏ vấn đề này, đề tài được triển khai nhằm “Nhận diện và đánh giá các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lao động và tác hại nghề nghiệp ở các cơ sở giết mổ gia cầm theo dây chuyền công nghiệp”. Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu của đề tài. 2. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC HẠI NGHỀ NGHIỆP 2.1. Nhận diện các yếu tố nguy hiểm và có hại Hiện nay, việc giết mổ gia cầm theo hướng công nghiệp ở nước ta được tiến hành tập trung trên các dây chuyền bán tự động (bao gồm công nghệ nhập từ nước ngoài và cả sản phẩm chế tạo tại Việt Nam). Việc tiến hành khảo sát thực tế cho phép nhận diện được một số yếu tố nguy hiểm và có hại tại nơi làm việc có thể gây ra tai nạn lao động và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của công nhân trong dây chuyền giết mổ gia cầm. Bảng dưới đây chỉ ra những yếu tố nguy hiểm và có hại tại các cơ sở có hoạt động giết mổ gia cầm theo dây chuyền công nghiệp ở phía Nam. CN. Phan Hải Yến Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 115 116 Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 117 118 Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 2.2. Kết quả đo môi trường lao động Kết quả đo môi trường không khí tại 05 cơ sở giết mổ gia cầm, gồm có: Nhà máy D&F (Đồng Nai), Cơ sở Đại Nam, Cơ sở Ngọc Sương, Cơ sở Tân Trường Phúc (Long An) và Cơ sở Ngọc Hà (TP. HCM) cho thấy:  Nhiệt độ trung bình tại tất cả các công đoạn trên dây chuyền sản xuất tính chung cho 05 đơn vị giết mổ gia cầm đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. Tuy nhiên, ở đây có sự khác biệt khá lớn giữa các cơ sở sản xuất trên cùng một công đoạn. Điều này là do có cơ sở đặt dây chuyền giết mổ trong nhà xưởng có hệ thống máy điều hòa trong khi những cơ sở khác thì giết mổ trong điều kiện không có hệ thống điều hòa. Ngoài ra, vào những thời điểm thời tiết nóng, nhiệt độ tại một số công đoạn sản xuất khá cao nhưng vẫn còn nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép.  Độ ẩm trung bình tại nhiều công đoạn trên dây chuyền tính chung cho 05 đơn vị giết mổ gia cầm cao hơn tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. Tương tự như trên, ở đây cũng có sự khác biệt lớn về độ ẩm giữa các cơ sở sản xuất trên cùng một công đoạn do tác động của điều kiện sản xuất (giết mổ trong nhà xưởng kín có hệ thống máy điều hòa hay trong điều kiện bình thường). Có những thời điểm khảo sát là buổi tối lúc trời mưa nên giá trị độ ẩm rất cao.  Tất cả các giá trị đo về tốc độ gió đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. Có nhiều vị trí, trị số đo tốc độ gió khá cao là do cơ sở sử dụng quạt trần và quạt công nghiệp trong nhà xưởng.  Về độ ồn: có đến 44,44% điểm đo trên dây chuyền vượt tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp tính trung bình cho 05 cơ sở. Trong số 55,56% điểm đo còn lại có khá nhiều trị số cao hơn 80dBA. Tuy vậy, có trường hợp trên cùng một dây chuyền có đến 17/18 điểm đo vượt ngưỡng giới hạn cho phép từ 3 đến 14dBA.  Về ánh sáng: hầu hết các giá trị trung bình trên các vị trí đo tính chung cho 05 dây chuyền được khảo sát đều đáp ứng được nhu cầu công việc. Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm ở đây chính là sự khác biệt khá lớn giữa các cơ sở giết mổ xét trên cùng một công đoạn. Điều này được minh họa trên các giá trị thấp nhất và cao nhất. Xem xét các giá trị thấp nhất, dễ dàng nhận ra có nhiều trị số đo rất thấp, sẽ có ảnh hưởng không tốt cho thị lực của người lao động, nhất là khi họ phải làm việc vào ban đêm; làm việc trong điều kiện thiếu ánh sáng có thể góp phần làm gia tăng khả năng xảy ra tai nạn lao động.  Về vi sinh vật: tất cả 05 cơ sở giết mổ gia cầm được khảo sát đều có môi trường không khí đạt chất lượng tốt.  Về bụi và hơi khí độc: Các bảng số liệu nêu trên chỉ ra Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 119 môi trường làm việc của công nhân trong dây chuyền giết mổ gia cầm tại 05 cơ sở được tiến hành khảo sát có các chỉ tiêu bụi, NO2 , SO2 , CO và O3 đạt tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. 2.3. Đánh giá mức độ nặng nhọc của công việc Hai loại dây chuyền công nghiệp giết mổ gia cầm hiện nay (dây chuyền nhập từ nước ngoài và dây chuyền chế tạo trong nước) có sự phân bố lao động không đồng nhất; các yếu tố điều kiện lao động tác động đến người lao động tại vị trí làm việc cũng không hoàn toàn giống nhau. Để đánh giá một cách đại diện mức độ khắc nghiệt của điều kiện lao động, hai dây chuyền được chọn là dây chuyền công suất 2000 con/giờ của Nhà máy D&F và dây chuyền công suất 300-600 con/giờ của Cơ sở Đại Nam. Mức độ nặng nhọc của công việc được tính đối với những công đoạn có người lao động tham gia sản xuất trực tiếp trên dây chuyền theo phương pháp của Viện Khoa học lao động và Các vấn đề Xã hội Việt Nam. Kết quả cho thấy công việc trên dây chuyền công nghiệp giết mổ gia cầm hiện có mức độ nặng nhọc loại II và loại III. 2.4. Đánh giá tình hình sức khỏe của người lao động Kết quả thống kê 178 hồ sơ sức khỏe của công nhân đang làm việc tại các cơ sở giết mổ gia cầm ở Đồng Nai và Long An qua khám sức khỏe định kỳ năm 2009 cho thấy:  Công nhân có sức khỏe loại II chiếm đa số, kế đến là loại I và loại III. Trong đó, ở Đồng Nai công nhân có sức khỏe loại III nhiều hơn loại I, ngược lại với tình hình sức khỏe của công nhân ở Long An: tỷ lệ loại I nhiều hơn loại III.  Vẫn còn 6,74% công nhân có sức khỏe loại IV và 3,93% công nhân có sức khỏe loại V, do đó các nhà quản lý sức khỏe tại cơ sở cần chú ý đến những đối tượng này để có thể phân công lao động hợp lý và chăm sóc tốt hơn cho sức khỏe người lao động.  Tỷ lệ công nhân bị các vấn đề sức khỏe liên quan đến răng hàm mặt như giảm sức nhai, nha chu viêm, chiếm tỉ lệ cao nhất (56,18%). Tỷ lệ bệnh nội khoa cũng khá cao, đặc biệt là tỷ lệ bệnh về tim và huyết áp chiếm đến 24,72%, do vậy những đối tượng này cũng cần được quan tâm theo dõi tình trạng huyết áp thường xuyên, nhằm tránh những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng do huyết áp không ổn định gây ra khi phải lao động gắng sức hay làm việc trong điều kiện lao động không thuận lợi.  Cho đến nay, các công nhân được thực hiện các xét nghiệm về HAV và ký sinh trùng đường ruột đều có kết quả âm tính.  Kết quả chụp X quang được tiến hành vào năm 2009 cho 38 công nhân tại Nhà máy D&F cho thấy các công nhân chưa có dấu hiệu liên quan đến bệnh hô hấp. Có lẽ do nhà máy D&F chỉ mới bắt đầu sản xuất vài năm và chưa hoạt động hết công suất, nhưng trong tương lai việc sản xuất được mở rộng, công nhân sẽ làm việc với thời gian nhiều hơn, tiếp xúc với nhiều yếu tố điều kiện lao động nặng nhọc và độc hại hơn thì nguy cơ mắc bệnh hô hấp như viêm phế quản mãn tính là khả năng dễ xuất hiện, nhất là đối với những công nhân có hút thuốc lá.  Chức năng hô hấp: 105 công nhân đều có chức năng hô hấp đạt trị số bình thường, chưa có dấu hiệu của hội chứng tắc nghẽn hay hạn chế. Đối với công nhân nam, chỉ số VEMS đạt trung bình là 3191 trong khoảng giới hạn từ 2930 đến 3450; dung tích sống cũng đạt trung bình 3410 với khoảng cách từ 3140 đến 3690. Ở công nhân nữ, chỉ số VEMS đạt trung bình là 2550 trong khoảng giới hạn từ 2120 đến 3120; dung tích sống cũng đạt trung bình 2810 với khoảng cách từ 2400 đến 3340.  Mức tiêu hao năng lượng: chỉ số mạch và huyết áp của 105 công nhân trước và sau ca lao động không thay đổi 120 Tạp chí Hoạt động KHCN An toàn - Sức khỏe & Môi trường lao động, Số 1&2-2012 nhiều. Mạch trung bình trước và sau ca lao động đối với công nhân nam tương ứng là 77,24 ± 6,25 và 78,78 ± 6,81 nhịp/phút; mạch trung bình trước và sau ca lao động đối với công nhân nữ tương ứng là 76 ± 5,03 và 77,34 ± 5,36 nhịp/phút. Tương tự, chỉ số huyết áp cũng không thay đổi nhiều khi so sánh trước và sau ca sản xuất. Ngoài ra, tính mức độ tiêu hao năng lượng cho thao tác lao động trên những công nhân này, kết quả đối với cả hai đối tượng nam và nữ đều thể hiện mức độ lao động là nhẹ (<3). Mức tiêu hao năng lượng trung bình ở nam là 1,93 ± 0,03 với khoảng giới hạn từ 1,87 đến 1,97 và ở nữ là 0,59 ± 0,05 với khoảng giới hạn từ 0,51 đến 0,69. 3. KẾT LUẬN 1. Kết quả khảo sát và đánh giá hiện trạng môi trường lao động và các tác hại nghề nghiệp đối với công nhân trên dây chuyền công nghiệp giết mổ gia cầm cho thấy mức độ nặng nhọc của công việc chưa có sự ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe của người lao động là do thời gian làm việc của đa số công nhân còn khá ngắn (khoảng gần 2 năm) và các doanh nghiệp cũng chưa hoạt động hết công suất. 2. Công tác AT- VSLĐ tại các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều bất cập: còn thiếu bộ phận y tế (hoặc chưa có hợp đồng chăm sóc sức khoẻ với đơn vị y tế theo quy định) và trang thiết bị y tế sơ cứu; chưa có đồng bộ và chưa thật đầy đủ về bộ phận an toàn vệ sinh lao động (cán bộ phụ trách AT- VSLĐ), nội quy AT- VSLĐ tại nơi làm việc, huấn luyện AT- VSLĐ cho người lao động và các chủng loại PTBVCN 3. Đây là một trong những ngành công nghiệp còn non trẻ ở nước ta và có nhiều nguy cơ tiềm ẩn gây tác hại nghề nghiệp, do đó cần thiết phải có sự quan tâm đúng mức của các nhà quản lý doanh nghiệp và cơ quan chức năng để hoàn thiện công tác AT-VSLĐ tại cơ sở, thực hiện sản xuất an toàn và không gây ô nhiễm môi trường nhằm bảo vệ người lao động và sức khỏe cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia, Nhà xuất bản Lao động, 2010. [2]. Bộ Y tế, Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế Số: 3 7 3 3 / 2 0 0 2 / Q Đ - B Y T , 10/10/2002 . [3]. Bộ Y tế- Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường, Tâm sinh lý lao động và Ecgonomi- Tập1. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 1998. [4]. Bộ Y tế- Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường, Thường quy kỹ thuật Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường, Hà Nội, 2002. [5]. Nguyễn Văn Quán, Nguyên lý khoa học Bảo hộ lao động- Tài liệu giảng dạy lưu hành nội bộ, Khoa Khoa học Bảo hộ lao động & Môi trường, Trường Đại học Tôn Đức Thắng- Thành phố Hồ Chí Minh, 2004. [6]. Viện Khoa học lao động & Các vấn đề xã hội, Hướng dẫn phân loại nghề nặng nhọc độc hại ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. [7]. Viện Vệ sinh dịch tể học, Thường quy kỹ thuật dùng cho các Trạm Vệ sinh phòng dịch. Nhà xuất bản Y học – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, 1976. [8]. Chacin B, Corzo G, Montiel M, Lung function in workers in a chicken slaugh- terhouse in the city of Maracaibo, Venezuela. [9]. Ferda Dokuztug, Evren Acik, Akin Aydemir, Halim Issever, Ayse Yilmaz and Metin Erer, Early symptoms of the Work- related Musculoskeletal Disorders in Hand and Upper Extremity in the Poultry Industry, J. Med, Sci, May-June, 2006.