2. Mở rộng phạm vi tham khảo và cơ sở lý luận
Từ nửa đầu những năm 1980 đến đầu những năm 1990, trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế - xã hội và những chuyển biến bước đầu đến Đổi Mới, vấn đề chính
sách xã hội thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu và người làm chính sách. Nhưng
mặt khác, lĩnh vực này còn thiếu một sự kết nối hữu cơ giữa tri thức, lý thuyết,
phương pháp và thực nghiệm. Nhiều nghiên cứu thực tế đề cập những chủ đề chính
sách xã hội cụ thể khác nhau, nhưng phần lớn dựa trên kiểu nghiên cứu kinh
nghiệm truyền thống. Còn thiếu những bài giới thiệu về bộ môn khoa học này ở các
nước đi trước, cũng như thiếu những công trình xác định được những đường nét
chính yếu về mặt lý thuyết. Một số công trình thuộc loại này mới chỉ đưa ra những
cách luận giải chung chung, dựa trên thông tin nghiên cứu ở các nước xã hội chủ
nghĩa, khó phục vụ cho việc thao tác hóa khái niệm để đưa vào áp dụng trong nghiên
cứu thực nghiệm.
Trong bối cảnh đó, IOS-SW đã cố gắng xây dựng một quan niệm mang tính lý
thuyết về chính sách xã hội, dựa trên lịch sử và thực tiễn nghiên cứu chính sách xã
hội quốc tế nói chung, hơn là chỉ dựa trên các nghiên cứu về chính sách xã hội trong
các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Điều này tạo điều kiện cho việc nghiên cứu thực tế
chính sách xã hội Việt Nam phù hợp hơn với quá trình chuyển biến từ kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó còn tạo
cơ sở hình thành khung phân tích cho nghiên cứu chính sách xã hội thực nghiệm.
Những kết quả trên được công bố trong một số bài đăng ở Tạp chí Xã hội học các năm
1990-1992, xuất bản lại ở một số chương sách của Viện và của Đề tài KX.04.04 các
năm 1993-1994 (do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, chủ trì). Một số kết quả nghiên cứu mới về chính sách xã hội
quốc tế cũng được giới thiệu gần đây (2002-2003).
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu phúc lợi xã hội: Nhìn lại một chặng đường (Trường hợp một chương trình nghiên cứu và triển khai), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 4 (92), 2005 13
Nghiên cứu phúc lợi xã hội:
nhìn lại một chặng đ−ờng
(Tr−ờng hợp một ch−ơng trình nghiên cứu và triển khai)
Bùi Thế C−ờng
Kỷ niệm 20 năm Viện Xã hội học (1983-2003), là dịp nhìn lại những h−ớng
nghiên cứu của Viện. Bài viết làm điều này với một h−ớng nghiên cứu cụ thể, trong
khuôn khổ một Phòng nghiên cứu.1
GS. Vũ Khiêu, Viện tr−ởng đầu tiên, là ng−ời khởi x−ớng h−ớng nghiên cứu
chính sách xã hội và quản lý xã hội khoảng năm 1982, có lẽ sau khi ông đi khảo sát
một loạt n−ớc Đông âu. Ông xác định h−ớng nghiên cứu này theo hai nghĩa: chính
sách xã hội nh− là một chuyên ngành, và chính sách xã hội nh− là một định h−ớng
cho mọi nghiên cứu xã hội học (định h−ớng chính sách, khuyến nghị chính sách). Về
mặt quản lý, GS. Vũ Khiêu đã khai phá quan hệ hợp tác trong n−ớc và quốc tế cho
h−ớng nghiên cứu này, thành lập Phòng Chính sách xã hội và quản lý xã hội (1983),
tạo ra cơ hội lớn cho công tác đào tạo cán bộ. Ng−ời Viện tr−ởng kế nhiệm, GS. T−ơng
Lai, tiếp tục phát triển ph−ơng h−ớng đã có sang một giai đoạn mới. Ông khuyến
khích nghiên cứu một cách bài bản, và là ng−ời đề xuất ý t−ởng nghiên cứu vấn đề
ng−ời cao tuổi cho Viện vào năm 1991. Ông thành lập Phòng Cơ cấu xã hội và chính
sách xã hội (1992), và hỗ trợ nhiều cho việc mở rộng quan hệ cộng tác trong n−ớc và
quốc tế. Với sự quan tâm của hai Viện tr−ởng, h−ớng nghiên cứu chính sách xã hội
đã gặt hái những kết quả nhất định. Phải chăng có thể nói đến một Ch−ơng trình
nghiên cứu phúc lợi xã hội của Viện Xã hội học trong 20 năm qua (IOS-SW: Institute
of Sociology Social Welfare Research Program).
1. B−ớc đi ban đầu trong những năm 1980
Theo chỉ đạo của GS. Vũ Khiêu, trong những năm 1980, các nhà nghiên cứu
của Phòng Chính sách xã hội và quản lý xã hội tiến hành hai đề tài: "Chính sách xã
hội và quản lý xã hội ở cấp cơ sở nông thôn và đô thị" (1983-1985) và "Chính sách xã
hội ở Việt Nam và các n−ớc xã hội chủ nghĩa" (1987-1989). Đề tài sau nằm trong
khuôn khổ một hoạt động hợp tác quốc tế của 8 n−ớc xã hội chủ nghĩa. B−ớc đi ban
đầu có một vài kết quả khiêm tốn, một ít ấn phẩm của các hoạt động nghiên cứu
1 Ch−ơng trình nghiên cứu về Chính sách xã hội và công tác xã hội tại Phòng Phúc lợi xã hội. Bài viết không
bao quát đ−ợc toàn bộ các nghiên cứu của Viện có liên quan đến lĩnh vực này theo nghĩa rộng. Bài viết chủ
yếu nhìn lại 20 năm kể từ 1983, song có bổ sung những hoạt động trong năm 2004 - 2005.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Nghiên cứu phúc lợi xã hội: nhìn lại một chặng đ−ờng 14
chính sách xã hội: "Quản lý xã hội ở cấp Ph−ờng thành phố Hà Nội" (Viện Xã hội học,
1985), "Chính sách xã hội: Việt Nam" (Viện Hàn lâm khoa học Đức, 1989), một số bài
tạp chí (1986-1989).
2. Mở rộng phạm vi tham khảo và cơ sở lý luận
Từ nửa đầu những năm 1980 đến đầu những năm 1990, trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế - xã hội và những chuyển biến b−ớc đầu đến Đổi Mới, vấn đề chính
sách xã hội thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu và ng−ời làm chính sách. Nh−ng
mặt khác, lĩnh vực này còn thiếu một sự kết nối hữu cơ giữa tri thức, lý thuyết,
ph−ơng pháp và thực nghiệm. Nhiều nghiên cứu thực tế đề cập những chủ đề chính
sách xã hội cụ thể khác nhau, nh−ng phần lớn dựa trên kiểu nghiên cứu kinh
nghiệm truyền thống. Còn thiếu những bài giới thiệu về bộ môn khoa học này ở các
n−ớc đi tr−ớc, cũng nh− thiếu những công trình xác định đ−ợc những đ−ờng nét
chính yếu về mặt lý thuyết. Một số công trình thuộc loại này mới chỉ đ−a ra những
cách luận giải chung chung, dựa trên thông tin nghiên cứu ở các n−ớc xã hội chủ
nghĩa, khó phục vụ cho việc thao tác hóa khái niệm để đ−a vào áp dụng trong nghiên
cứu thực nghiệm.
Trong bối cảnh đó, IOS-SW đã cố gắng xây dựng một quan niệm mang tính lý
thuyết về chính sách xã hội, dựa trên lịch sử và thực tiễn nghiên cứu chính sách xã
hội quốc tế nói chung, hơn là chỉ dựa trên các nghiên cứu về chính sách xã hội trong
các n−ớc xã hội chủ nghĩa cũ. Điều này tạo điều kiện cho việc nghiên cứu thực tế
chính sách xã hội Việt Nam phù hợp hơn với quá trình chuyển biến từ kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa. Nó còn tạo
cơ sở hình thành khung phân tích cho nghiên cứu chính sách xã hội thực nghiệm.
Những kết quả trên đ−ợc công bố trong một số bài đăng ở Tạp chí Xã hội học các năm
1990-1992, xuất bản lại ở một số ch−ơng sách của Viện và của Đề tài KX.04.04 các
năm 1993-1994 (do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội, Bộ Lao động,
Th−ơng binh và Xã hội, chủ trì). Một số kết quả nghiên cứu mới về chính sách xã hội
quốc tế cũng đ−ợc giới thiệu gần đây (2002-2003).
3. Công tác xã hội: một phát hiện lại
Từ đầu thập niên 1990, IOS-SW đã có những đóng góp trong việc phát triển
những hiểu biết mới về lĩnh vực công tác xã hội. Đây là thập niên chuyển biến mạnh
mẽ về quan niệm và thực tiễn công tác xã hội. Nhiều tổ chức đoàn thể hoạt động
trong lĩnh vực này đã nhận thấy rằng thời kỳ Đổi Mới đòi họ phải chuyển mình, thay
đổi tận gốc rễ cách nhìn và cách làm công tác xã hội. Tuy nhiên, còn nhiều lúng túng
trong ph−ơng h−ớng, quan niệm, ph−ơng pháp, tổ chức và b−ớc đi. Mặt khác, trợ
giúp quốc tế ngày càng tăng cũng dẫn đến những đòi hỏi mới về ph−ơng thức công
tác xã hội hiện đại. Về mặt này, trong một thời gian dài, Việt Nam hầu nh− không
biết đến những tiến triển mới trong quan niệm và thực tiễn công tác xã hội ở các xã
hội dựa trên nền kinh tế thị tr−ờng, đã phát triển cũng nh− đang phát triển.
Trong bối cảnh trên, IOS-SW đã cung cấp những xuất bản phẩm và lớp tập
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Bùi Thế C−ờng 15
huấn, giới thiệu về lý thuyết và ph−ơng pháp luận công tác xã hội hiện đại, đã tiến
hành những nghiên cứu tr−ờng hợp về các mô hình công tác xã hội trong thực tế Việt
Nam. Ch−ơng trình đã tìm kiếm đối tác n−ớc ngoài cùng tổ chức hội thảo và lớp tập
huấn về công tác xã hội cho cán bộ làm việc ở đoàn thể và tổ chức xã hội (Phụ Lục 2).
Những nỗ lực trên đóng góp vào việc lấp khoảng trống tri thức và kỹ năng công tác
xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị tr−ờng, đặc biệt ở
phần phía Bắc của đất n−ớc.
Một đóng góp khác đáng chú ý: từ 1992, IOS-SW đã nhấn mạnh đến yêu cầu
hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo và thực hành chính
sách xã hội và công tác xã hội. Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung bao cấp, các nhà
vạch chính sách xã hội và công tác xã hội làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm
hoạt động chính trị. Chỉ có một số tr−ờng bồi d−ỡng nghiệp vụ với nội dung chuyên
môn nghèo nàn cho cán bộ làm việc trong các Bộ và đoàn thể liên quan. Trong khi đó,
hệ thống đại học ch−a có mã số và ch−ơng trình đào tạo về chính sách xã hội và công
tác xã hội. Xuất phát từ tình hình nói trên, IOS-SW khuyến nghị cần nhanh chóng
thành lập các khoa hay tr−ờng công tác xã hội trong các tr−ờng đại học, xúc tiến xây
dựng ch−ơng trình đào tạo chính quy cho bộ môn chính sách xã hội và công tác xã
hội, xem đây là giải pháp cơ bản dài hạn cho việc hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa
hai lĩnh vực này.
4. Học thuyết chính sách xã hội quốc gia trong điều kiện mới
Từ 1992 - 1993, các nghiên cứu của IOS-SW đã cố gắng chứng minh tầm quan
trọng của học thuyết chính sách xã hội trong một quốc gia, khuyến nghị rằng sự quá
độ của xã hội Việt Nam sang kinh tế thị tr−ờng tất yếu đòi hỏi phải khẩn tr−ơng xây
dựng lại học thuyết chính sách xã hội cho đất n−ớc. Một số nghiên cứu quốc tế đã
khái quát hóa từ thực tiễn chính sách xã hội thế giới thành ba mô hình chính sách xã
hội. IOS-SW gợi ý rằng mô hình chính sách xã hội của Việt Nam phải xuất phát từ
thực tế lịch sử chính sách xã hội của chính mình để đ−a ra một kết hợp cụ thể thích
ứng với bản thân, nh−ng cần chú trọng đến kinh nghiệm quốc tế. Trong 14 năm qua,
hoạt động nghiên cứu của IOS-SW chủ yếu đi theo lập tr−ờng này. Công trình gần
đây nhất của IOS-SW đ−a ra một số phân tích và 8 khuyến nghị liên quan đến vấn
đề hình thành học thuyết và chiến l−ợc phúc lợi quốc gia (2003).
5. Ba mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam
Góp phần vào nghiên cứu hiện trạng phúc lợi và học thuyết chính sách xã hội
mới, IOS-SW đã có những nỗ lực về mặt lý luận. Năm 1993, luận đề về ba khuôn
mẫu cấu trúc xã hội và văn hóa chủ yếu ở Việt Nam. Năm 1999, đề xuất khái niệm
phúc lợi xã hội nh− là một phạm trù lý luận then chốt để khái quát hóa thực tiễn
chính sách xã hội và công tác xã hội; đ−a ra khung phân tích về ba mô hình phúc lợi
xã hội ở Việt Nam, về sự thay thế và pha trộn của ba mô hình này trong tiến trình
lịch sử hiện đại cũng nh− trong thực tế hiện nay. Năm 2003, xây dựng mô hình phân
tích không gian phúc lợi con ng−ời và xã hội.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Nghiên cứu phúc lợi xã hội: nhìn lại một chặng đ−ờng 16
Những luận đề và sơ đồ phân tích trên đã đ−ợc vận dụng trong một số công trình
nghiên cứu về T− t−ởng phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh, chính sách phúc lợi ng−ời cao tuổi,
phúc lợi doanh nghiệp, chăm sóc sức khoẻ vùng cao, khu vực các tổ chức xã hội dân sự,
mô hình ba bên trong lĩnh vực phúc lợi (Chính phủ, doanh nghiệp, Công đoàn).
Trong 14 năm qua, IOS-SW đã nỗ lực đi sâu nhận diện những đặc tr−ng của hệ
thống phúc lợi xã hội quốc gia, tổng kết thành 10 đặc điểm và vấn đề cơ bản (1999).
Nghiên cứu gần đây của IOS-SW (2003) l−u ý đến 2 vấn đề then chốt đang nổi lên. Đó
là, việc phân bổ không đồng đều nguồn lực phúc lợi trong các giai tầng và nhóm xã hội.
Và thứ hai, việc định hình vị thế xã hội ch−a rõ ràng và phân bổ nguồn lực thiếu công
bằng cho các loại chủ thể khác nhau cùng hoạt động trong hệ thống phúc lợi.
6. T− t−ởng Phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh
Xây dựng học thuyết mới về phúc lợi xã hội không thể tách rời với việc nghiên
cứu quá trình lịch sử hình thành hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia. Để hiểu đ−ợc tiến
trình này, cần nghiên cứu quán triệt các quan điểm và chính sách của Đảng, đặc biệt
là di sản T− t−ởng Hồ Chí Minh. Năm 2001, IOS-SW tiến hành một đề tài tiềm lực
cấp Viện với mục tiêu tìm hiểu những khía cạnh về phúc lợi xã hội trong di sản t−
t−ởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu b−ớc đầu cho phép IOS-SW
đ−a ra ý kiến rằng có một T− t−ởng phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh trong di sản T−
t−ởng của Ng−ời, phác họa một số luận điểm chính trong T− t−ởng phúc lợi xã hội
của Hồ Chí Minh. Điều này tạo cơ sở tìm hiểu sâu hơn và ứng dụng vào công tác
nghiên cứu lý luận cũng nh− thực nghiệm.
7. Định vị phúc lợi xã hội trong cấu trúc và tiến trình của Đổi Mới
Năm 2003, IOS-SW cố gắng nhận diện một sơ đồ về cấu trúc và tiến trình của
Đổi Mới xét về mặt mục tiêu và tác động xã hội. Ch−ơng trình đã phân tích các bộ số
liệu định l−ợng quốc gia để tìm hiểu mối t−ơng tác giữa phúc lợi xã hội và biến đổi
của kết cấu giai tầng xã hội qua thời gian, 1993-2002. Dõi theo sự phát triển của hệ
thống phúc lợi xã hội trong thời kỳ Đổi Mới, IOS-SW nhận diện năm trục phát triển
cơ bản của hệ thống này (2003), trên cơ sở đó triển khai những nghiên cứu cụ thể.
Phúc lợi xã hội trong thời kỳ Đổi Mới, nhìn chung, phát triển xung quanh 5 trục cơ
bản sau đây.
- Xây dựng ba khu vực chính của hệ thống phúc lợi xã hội (−u đãi xã hội,
bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội).
- Hình thành các quan hệ lao động (Luật Doanh nghiệp, Luật Lao động, ...).
- Phúc lợi cho các nhóm xã hội yếu thế (trẻ em, phụ nữ, ng−ời cao tuổi,
ng−ời tàn tật, ng−ời nghèo, ng−ời có hoàn cảnh khó khăn, ...).
- Xoá đói giảm nghèo.
- Khuôn khổ hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội (Nhà
n−ớc, đoàn thể xã hội, tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, nhóm hoạt
động, v.v...).
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Bùi Thế C−ờng 17
8. Nghiên cứu thực nghiệm phúc lợi xã hội: tr−ờng hợp ng−ời cao tuổi
Gắn với công tác lý luận, IOS-SW đã triển khai những công trình thực
nghiệm liên quan đến các bộ phận hợp thành của hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia,
cũng nh− liên quan đến những nhóm đối t−ợng của chính sách xã hội. Về mặt khu
vực, các nhà nghiên cứu của Ch−ơng trình đã tìm hiểu lĩnh vực −u đãi xã hội, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội (từ 1991). Về mặt nhóm đối t−ợng, có
những khảo sát về ng−ời cao tuổi (từ 1991), trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn (từ
1993), ng−ời khuyết tật (từ 1999), sức khoẻ, y tế và giáo dục ở ng−ời dân tộc thiểu số
(1992, 1999-2000), ng−ời nghèo, cựu chiến binh (1999, 2003), ng−ời có HIV (1992-
1994, 2000). Những nghiên cứu này giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh sống và chính sách
xã hội Nhà n−ớc đối với các nhóm đối t−ợng. Gần đây, IOS-SW chú trọng nghiên cứu
các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi, nh− doanh nghiệp (2000), tổ chức xã hội (2001-
2002), các tác nhân nỗ lực tập thể và phong trào xã hội (2002-2003). Việc điểm lại
những nghiên cứu trên đòi hỏi thời gian và nhân lực, ở đây chỉ xin nói đến hai h−ớng
nghiên cứu cụ thể.
Từ nửa đầu những năm 1980, Viện Xã hội học đã có những nghiên cứu đầu
tiên về ng−ời có tuổi. B−ớc sang thập niên 1990, chủ đề này trở thành một h−ớng
nghiên cứu có hệ thống và dài hạn trong IOS-SW (Nghiên cứu về tuổi già và ng−ời
lớn tuổi - Aging and Adults Research: IOS-AAR). Trong khuôn khổ IOS-AAR, đã tiến
hành 6 cuộc khảo sát về ng−ời cao tuổi (từ 1991 đến 2000), xuất bản 57 bài trong Tạp
chí Xã hội học, 9 bài ở tạp chí hoặc ấn phẩm n−ớc ngoài, 5 bài viết in trong sách, 1
cuốn sách chuyên khảo. IOS-AAR đã viết đ−ợc một tổng quan cho đến nay là duy
nhất về tình hình nghiên cứu xã hội đối với ng−ời cao tuổi ở Việt Nam kể từ những cố
gắng đầu tiên của các nhà lão khoa đầu những năm 1970.
IOS-AAR đã đề xuất và tuyên truyền rộng rãi cho một số khuyến nghị mà nó
cho là có ý nghĩa đối với ng−ời cao tuổi. Chẳng hạn, trong các ấn phẩm và một số hội
thảo khoa học và thực tiễn diễn ra trong năm 1992-1993, IOS-AAR khuyến nghị
rằng đã chín muồi cho việc thành lập Hội ng−ời có tuổi ở cấp quốc gia để thống nhất
các phong trào bảo thọ địa ph−ơng vào một khuôn khổ chung, xem đây là "một đòn
bẩy quyết định để tạo ra những công cụ xã hội quan trọng cho sự nghiệp chăm lo cho
ng−ời cao tuổi". IOS-AAR đề nghị rằng cần có một tờ báo riêng cho ng−ời cao tuổi và
một trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia về tuổi già; cần khôi phục các hệ thống
bảo hiểm xã hội cho ng−ời già ở nông thôn và cho những ng−ời đã làm việc trong khu
vực hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, tiến tới một tổ chức bảo hiểm tuổi già rộng rãi
trên cả n−ớc; cần đặc biệt chú trọng đến phúc lợi của ng−ời cao tuổi nông thôn và phụ
nữ có tuổi; cần tạo điều kiện cho việc hình thành những NGO trong n−ớc phục vụ cho
công tác tuổi già; cần chú ý đến việc hình thành một thị tr−ờng các sản phẩm và dịch
vụ liên quan đến ng−ời cao tuổi.
Một số trong những điểm nêu trên đã thấy xuất hiện trong cuộc sống. Năm
1995, ra đời Hội ng−ời cao tuổi Việt Nam, báo "Ng−ời cao tuổi" cũng đ−ợc xuất bản.
Một số địa ph−ơng đã nỗ lực thử nghiệm hình thức bảo hiểm xã hội cho nông dân và
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Nghiên cứu phúc lợi xã hội: nhìn lại một chặng đ−ờng 18
khu vực ngoài quốc doanh phi nông nghiệp, mặc dù những cố gắng này còn gặp nhiều
thách thức. Từ 1997, Hội phụ nữ đã có những ch−ơng trình giúp đỡ phụ nữ cao tuổi và
trong Đại hội gần đây (2002) Hội đã nhấn mạnh đến nhóm ng−ời này nh− là một
nhóm mục tiêu đ−ợc −u tiên trong ch−ơng trình công tác của mình. Năm 1991, IOS-
AAR đã tham gia sáng lập một tổ chức phúc lợi cho ng−ời già theo kiểu NGO (Trung
tâm nghiên cứu và trợ giúp ng−ời cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam). Mô hình này
đã nhân rộng ở Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh, với các ch−ơng trình chăm sóc
tại nhà, giúp đỡ tình nguyện, và truyền thông giáo dục sức khoẻ tại cơ sở.
Các phân tích về xu h−ớng già hóa và chính sách ng−ời cao tuổi ở Việt Nam
do IOS-AA tiến hành năm 1999 phối hợp với Đại học Michigan đã phát hiện rằng xu
h−ớng già hóa dân số của Việt Nam sẽ chỉ bắt đầu một cách mạnh mẽ sau 2010.
Song, xu h−ớng tăng nhanh tỷ lệ nhóm ng−ời già hơn (75+) trong nhóm ng−ời cao
tuổi nói chung (60+) đã thể hiện rõ ngay từ cuối thập niên 1990, và sẽ đậm nét hơn
trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Ngoài ra, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi trong số
ng−ời già cũng sẽ rất cao ở Việt Nam, cao một cách bất th−ờng so với đa số n−ớc trên
thế giới. Dựa vào phân tích trên đây, trong các ấn phẩm và hội thảo khoa học các
năm 1999-2001, IOS-AAR đã tích cực kiến nghị rằng, cho đến tr−ớc 2010, Việt Nam
phải sớm có những chuẩn bị đủ mạnh và hiệu quả, để có thể chủ động đ−ơng đầu với
xu h−ớng già hóa dân c− tất yếu đang đến gần. Phân tích nói trên cũng chỉ ra rằng
mặc dù trong những năm 1990 đã có những tiến triển khích lệ trong các chính sách
Nhà n−ớc đối với nhóm ng−ời cao tuổi, song nếu so sánh với các n−ớc khác, Việt Nam
vẫn còn thiếu một văn kiện chính sách định h−ớng tổng quát và một ch−ơng trình
hành động quốc gia cho vấn đề già hóa dân c−. Những phân tích và kiến nghị nêu
trên đã nhận đ−ợc sự đồng tình rộng rãi trong các đối tác của IOS-AAR nh− UNFPA
ở Hà Nội, HelpAge International, Hội ng−ời cao tuổi Việt Nam, Bộ Lao động, Th−ơng
binh và Xã hội.1
IOS-AAR cũng có một đóng góp lý thú vào nghiên cứu văn hóa và gia đình:
khi phân tích định l−ợng các số liệu thực nghiệm liên quan đến nhóm ng−ời già, IOS-
AAR đã phát hiện và đề xuất luận đề về sự phân bố trên không gian địa lý và tộc
ng−ời của mô hình sắp xếp gia đình theo nơi c− trú ở Việt Nam (1997, 1999).
9. Nghiên cứu thực nghiệm phúc lợi xã hội: từ phong trào xã hội đến
tổ chức xã hội
Những năm Đổi Mới đánh dấu sự "bừng nở" 2 các nỗ lực tập thể và phong trào
xã hội ở Việt Nam. Nhiều trong các hoạt động tập thể này nhằm vào phúc lợi. Từ
2000, IOS-SW chú ý đến hiện t−ợng các nỗ lực tập thể, phong trào xã hội và tổ chức
xã hội, đến xu h−ớng nâng cao vai trò và tác động của chúng trong đời sống xã hội
1 Đáng tiếc, theo quan sát của tác giả bài viết, cho đến nay khuyến nghị này của IOS-AAR ch−a đ−ợc chú ý
thoả đáng. Gần đây mới có vài b−ớc chuẩn bị, chẳng hạn thành lập Ban nghiên cứu xây dựng Ch−ơng trình
hành động quốc gia về ng−ời cao tuổi.
2 Một chữ dùng đắt của Lê Đăng Doanh (Đổi Mới và sự phát triển con ng−ời ở Việt Nam. Thời đại. Tạp chí
Nghiên cứu và thảo luận. Số 5.2001. Paris. Trang 30-40).
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Bùi Thế C−ờng 19
nói chung cũng nh− trong phúc lợi nói riêng, một hiện t−ợng còn ít đ−ợc các nhà xã
hội học l−u tâm. Trong lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu của IOS-SW đã giới thiệu
những cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu quốc tế, cố gắng thử nghiệm một
cách thích hợp vào thực tế Việt Nam. IOS-SW đã cung cấp những bộ dữ liệu định
l−ợng và định tính có ý nghĩa, rút ra từ các khảo sát thực nghiệm về tổ chức xã hội ở
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (2001-2002). Năm 2002-2003, IOS-SW đã đề
xuất 2 đề tài tiềm lực cấp Viện nghiên cứu về các nỗ lực tập thể và phong trào xã hội.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân loại 3 kiểu tổ chức xã hội và phong trào xã hội
gắn với chúng, nhận diện những đặc điểm, −u điểm và khuyết điểm của từng loại
hình, đ−a ra dự báo về xu h−ớng phát triển, và đề xuất những khuyến nghị chính
sách liên quan đến lĩnh vực này.
10. Hợp tác, đào tạo, truyền bá
Không thu hẹp chỉ trong nghiên cứu, IOS-SW còn chú trọng đến hợp tác, đào
tạo và truyền bá. Trong 14 năm qua, IOS-SW đã có những hợp tác với 5 cơ sở nghiên
cứu trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, với 20 cơ quan trong n−ớc khác, và với 23
tổ chức quốc tế. Từ 1996, IOS-SW đã xây dựng giáo trình và tiến hành giảng dạy về
phúc lợi xã hội cho sinh viên đại học và cao học, h−ớng dẫn viết hơn 10 luận văn đại
học và trên đại học về chủ đề phúc lợi xã hội. IOS-SW cũng có nhiều bài viết giới
thiệu phúc lợi xã hội quốc tế với bạn đọc trong n−ớc và giới thiệu kết quả ng