1. Mở đầu
Biểu tượng là một dạng thông tin trong đời sống con người. Những hình ảnh tượng
trưng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống dần trở thành dấu ấn sâu đậm trong nền
văn hóa được cả cộng đồng chấp nhận và sử dụng. Như vậy, điều kiện quan trọng để một
hình ảnh ngôn ngữ trở thành biểu tượng đó là tần số xuất hiện và khả năng phổ biến. Nó
vừa mang những đặc trưng văn hóa chung vừa mang những sắc màu riêng của mỗi quốc
gia, cộng đồng dân tộc.
Có nhiều lí thuyết khác nhau về biểu tượng của các nhà nghiên cứu biểu tượng trên
thế giới như Jean Chevalier, Alain gheerbrant, C.G.Jung, L. White. nhưng đa số các ý
kiến đều thống nhất nhận định: “Biểu tượng chính là ngôn ngữ tượng trưng chỉ có ở loài
người và là tế bào của đời sống văn hóa”. Nói đến biểu tượng cũng chính là nói đến văn
hóa, nó còn được quan niệm như là một “đơn vị cơ bản” của văn hóa. Vì thế, “Muốn tìm
được bản sắc văn hóa dân tộc một cách chính xác thì cần phải thông qua các hệ thống biểu
tượng có trong lòng mỗi dân tộc” [2].
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những biểu tượng phổ biến trong thơ ca dân gian Mông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 70-78
This paper is available online at
NHỮNG BIỂU TƯỢNG PHỔ BIẾN TRONG THƠ CA DÂN GIAN MÔNG
Hùng Thị Hà
Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang
Tóm tắt. Thơ ca dân gian Mông có nhiều biểu tượng nghệ thuật độc đáo thông qua
các loài cây, con vật và vật dụng hàng ngày như cây lanh, lá ngón, cây ngô; con
chim, con ngựa; chiếc khèn, cái ô... phản ánh những nét đặc trưng văn hóa người
Mông. Các biểu tượng nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông hình thành từ môi
trường thiên nhiên và đời sống phong tục tập quán của dân tộc Mông tạo nên.
Từ khóa: Thơ ca dân gian Mông, biểu tượng nghệ thuật, loài cây, con vật, vật dụng
hàng ngày, đặc trưng văn hóa.
1. Mở đầu
Biểu tượng là một dạng thông tin trong đời sống con người. Những hình ảnh tượng
trưng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống dần trở thành dấu ấn sâu đậm trong nền
văn hóa được cả cộng đồng chấp nhận và sử dụng. Như vậy, điều kiện quan trọng để một
hình ảnh ngôn ngữ trở thành biểu tượng đó là tần số xuất hiện và khả năng phổ biến. Nó
vừa mang những đặc trưng văn hóa chung vừa mang những sắc màu riêng của mỗi quốc
gia, cộng đồng dân tộc.
Có nhiều lí thuyết khác nhau về biểu tượng của các nhà nghiên cứu biểu tượng trên
thế giới như Jean Chevalier, Alain gheerbrant, C.G.Jung, L. White... nhưng đa số các ý
kiến đều thống nhất nhận định: “Biểu tượng chính là ngôn ngữ tượng trưng chỉ có ở loài
người và là tế bào của đời sống văn hóa”. Nói đến biểu tượng cũng chính là nói đến văn
hóa, nó còn được quan niệm như là một “đơn vị cơ bản” của văn hóa. Vì thế, “Muốn tìm
được bản sắc văn hóa dân tộc một cách chính xác thì cần phải thông qua các hệ thống biểu
tượng có trong lòng mỗi dân tộc” [2].
2. Nội dung nghiên cứu
Thơ ca dân gian mỗi dân tộc đều mang trong mình một hệ thống biểu tượng mang
tín ngưỡng tôn giáo, phong tục, tập quán... Thơ ca dân gian Mông với thế giới hình tượng
Ngày nhận bài 11/1/2014. Ngày nhận đăng 25/05/2014.
Liên lạc Hùng Thị Hà, e-mail: hungthuhahg@gmail.com
70
Những biểu tượng phổ biến trong thơ ca dân gian Mông
phong phú như biểu tượng về hệ thống cây (cây lanh, cây tre, lá ngón, cỏ tranh, ngải cứu,
cây rau rớn, cây ngô...), biểu tượng về hệ thống loài vật (con chim, con ngựa, con trâu,...),
hoặc biểu tượng về đồ vật như cây khèn, cái ô, cái giường, cái áo, cái khăn, cái kim, sợi
chỉ, đôi bồ giáo, chiếc thắt lưng... mang những đặc trưng văn hóa vật thể và phi vật thể
luôn hiện hữu trong tinh thần của một dân tộc. Đó là những mã văn hóa quan trọng trong
đời sống của người Mông, biểu hiện ở cả tần số xuất hiện và ý nghĩa biểu trưng của nó.
2.1. Biểu tượng cây lanh
Người Mông thường nói: “Ở đâu có cây lanh thì đó có người Mông”, “Ở đâu có
người Mông ở đó có nghề dệt lanh”. Cây lanh đi vào văn học dân gian và làm nên bản
sắc văn hóa dân tộc Mông. Trong thơ ca dân gian Mông, cây lanh là đề tài, nguồn cảm
hứng, chất liệu và phương tiện biểu hiện nghệ thuật. Biểu tượng lanh xuất hiện với tần số
cao nhất trong số các biểu tượng về các loài cây khác. Theo thống kê, trong 283 trang/926
trang có đề cập 11 loại thực vật thì biểu tượng lanh có mặt 82 trang/926 trang, chiếm tỉ lệ
28,98%.
Lanh được coi như biểu tượng văn hóa truyền thống, gắn liền với sự sinh tồn và phát
triển của dân tộc Mông: “Bà Trày làm cho giống lanh sống lại/ Bà H’mông trồng giống
lanh tốt tươi/ ... Mình đi cắt lấy lanh/... cây to đem về dệt thành vuông chống tàu lau lá
cỏ/ mà làm lụng nuôi con cháu/ Cây nhỏ đem về dệt thành thước đón rượu đón cưới/ Cây
thẳng đem về dệt thành tấm chống đất đen vàng của nhà Trời” [8].
Vị trí linh thiêng của biểu tượng lanh trước tiên được xác định thông qua việc người
Mông không kể già hay trẻ khi chết đều phải mặc bộ trang phục bằng vải lanh, đội khăn
lanh, đi giày lanh. Đó là dấu hiệu để tổ tiên đón nhận ở thế giới bên kia: “Tổ tiên có hỏi
mình ở trên trần gian về được cái gì đem theo/ Thì mình thưa:/ Con ở trần gian về cái gì
chẳng được/ Được một chiếc khăn lanh, một chiếc áo lanh/ Một chiếc quần lanh, một thắt
lưng lanh/ Một đôi giày lanh, một đôi xà cạp lanh” [8]. Lanh là vật dẫn đường nối thế giới
thực tại với tổ tiên, là cây cầu, dây dẫn để người sống dâng lễ vật cúng người chết: “Người
đừng khóc đừng than/ Hãy chìa tay trái đón lấy/ Sợi dây con vật nắm vào tay/ Hãy chìa tay
phải nhận sợi chỉ con vật buộc vào chân” [5]. Không chỉ là cầu nối giữa thế giới thực tại
với thế giới linh thiêng mà lanh còn trở thành thứ vũ khí bảo vệ linh hồn con người vượt
qua chặng đường đầy gian khó, hiểm nguy khi tìm đến với tổ tiên: “Người Mông không
có vải lụa/ Người H’mông lấy sợi lanh đan thành đôi giày/ Người dẫm lên đầu sâu/ Vượt
núi sâu róm mà về với tổ tiên” [6]. Trong quan niệm của đồng bào, xưa kia người Mông
cũng có một quốc gia riêng với lá cờ màu đỏ với biểu tượng hình đôi sừng trâu. Mảnh vải
đỏ trước cửa còn có tác dụng khẳng định chủ quyền, bảo vệ hồn của các thành viên và
tài sản của gia đình. Hình ảnh mảnh vải lanh đỏ, vì thế, xuất hiện nhiều trong thơ ca dân
gian: “Cửa chính treo vải đỏ/ Bàn thờ dành dán giấy/ Giữa gian làm đrâu Mông nơi uống
rượu/ Ngoài hiên làm gầu Mông nơi thêu váy” [4]. Có thể nói, biểu tượng lanh xuất hiện
trong thơ ca dân gian Mông với nhiều tầng ý nghĩa trở thành vật thiêng, là tín hiệu văn
hóa góp phần tạo nên biểu tượng cố kết cộng đồng.
Đi vào thơ ca dân gian Mông, lanh còn biểu trưng cho vẻ đẹp, tính cách và số phận
71
Hùng Thị Hà
của người phụ nữ Mông. Lanh là chất liệu chính tạo nên bộ trang phục của người Mông:
“Nữ người H’mông chỉ kéo được ra sợi lanh, sợi đay/ Nữ người H’mông dệt thành vải
lanh, vải đay” [1], là niềm tự hào của người phụ nữ Mông: “Nữ ngưỡi Sã lấy chồng, nữ
mặc áo nhung/ Nữ người H’mông lấy chồng, nữ mặc áo lanh” [8]. Để ca ngợi vẻ đẹp trong
tâm hồn người con gái, ca dao người Kinh thường mượn hình ảnh hoa sen, hoa ngâu, cành
liễu... “Hoa sen mọc bãi cát lầm/ Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen”; người Thái dùng
hoa ban – một loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây bắc - làm biểu tượng cho vẻ đẹp của
người con gái; dân ca Dao lại dùng bông mẫu đơn nói đến dáng vẻ tươi tắn đẹp đẽ nhưng
giản dị khiêm nhường của phụ nữ Dao: “Em là mẫu đơn hoa đẹp nhất/ Hoa rơi xuống
nước vẫn bơi theo”... Trong thơ ca dân gian Mông, cây lanh trở thành vẻ đẹp tâm hồn, tính
cách của người phụ nữ Mông, là thước đo giá trị của người con gái: “Con gái không biết
làm lanh lấy được chồng vẫn rách/ Gái xinh không biết cầm kim vẫn hư” [9]. Để có được
một bộ trang phục, người phụ nữ Mông phải trải qua một quá trình lao động kiên trì, tỉ mỉ
và cả sự khéo léo, công phu, bởi thế với người Mông:“Muốn biết người tốt xem gác bếp/
Muốn biết người đẹp xem quần áo” [9].
Cây lanh và các vật dụng từ lanh thường được sử dụng để khắc họa vai trò của người
phụ nữ Mông trong gia đình: "Mẹ chết để lại cho con gái bó lanh thòng lọng treo cột/ Gái
mồ côi lớn thành người bó lanh đã thành ổ chuột chù" [3]. Hình ảnh "bó lanh đã thành ổ
chuột chù "diễn tả sâu sắc nỗi khổ của những đứa trẻ mồ côi mẹ; đồng thời nhấn mạnh vai
trò của người phụ nữ trong việc chăm sóc, nuôi dạy con cái.
Trong thơ ca dân gian Mông có rất nhiều phương thức diễn tả các trạng thái tình
yêu và biểu tượng lanh chính là một trong những phương tiện độc đáo. Lanh là cái cớ để
người ta tìm đến với nhau:“ Gầu Mông lấy năm lanh sợi cuốn lên khuỷu/ Nói đôi mẹ rằng/
Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời lên” [7]; là biểu trưng cho khát vọng tình yêu: "Giá
mình em là sợi lanh sợi chỉ/ Anh sẽ quấn vào người để sợi cùng anh đi" [8]; là lòng chung
thủy: "Em lấy của bố mẹ/ Cây sào cuộn lanh đem phơi sợi/ Em hãy làm con gái son chờ
đợi" [6] và tín vật tình yêu: "Em tặng chàng chiếc dây lưng lanh thêu hoa thành hình con
ốc". Hình ảnh lanh còn mang ý nghĩa biểu trưng cho ước vọng về cuộc sống vợ chồng giản
dị đầm ấm: "Ví dù ta lấy được mình/ Mình làm vụ lanh đôi ta mặc/ Ta làm vụ nương đôi
ta không ăn bữa nhạt" [7].
Tình yêu có bao nhiêu cung bậc trạng thái thì lanh mang trong nó bấy nhiêu ý nghĩa
biểu trưng. Bởi thế, không chỉ có khát vọng hạnh phúc, lanh còn thể hiện sự chua xót khi
tình yêu tan vỡ: "Hai ta gieo xong vụ lanh/ Nhớ gieo lại không nhớ hái" [6]. Thơ ca dân
gian còn là bức tranh xã hội cũ đầy rẫy những bất công, người phụ nữ Mông cũng tự ví
mình như cây lanh. Người may mắn có được hạnh phúc thì "như cây lanh xanh/ Mọc nơi
đất phẳng”; nếu bất hạnh thì “như lanh nương tra vào bãi ruộng/ lanh ruộng tra vào bãi
nương”, “Như cây lanh bị người ta sắp cắt”...
Hình ảnh cây lanh đi vào trong thơ ca trở thành biểu tượng nguồn gốc - dấu hiệu
của tộc người, đồng thời là biểu tượng tình yêu với các cung bậc vui buồn, thề nguyện,
nhớ nhung, xum họp, chia li; lanh còn là biểu tượng vẻ đẹp, tính cách, phẩm chất, số phận
của người phụ nữ... Có thể nói, biểu tượng lanh trải qua bề dày lịch sử trở thành niềm tự
72
Những biểu tượng phổ biến trong thơ ca dân gian Mông
hào và bản sắc dân tộc của người Mông.
2.2. Biểu tượng cây khèn
Cây khèn đã trở thành nhạc cụ thiêng và là biểu tượng của tộc người Mông. Trong
thơ ca dân gian Mông, khèn xuất hiện thể hiện sự linh thiêng, gắn liền với các nghi lễ
trong đám tang. Nguồn gốc xuất hiện của cây khèn gắn liền với những truyền thuyết của
người Mông. Theo truyền thuyết, âm thanh phát ra từ mỗi ống trúc tượng trưng cho tiếng
khóc, tiếng lòng của người con trước nỗi đau mất cha mẹ. Vì thế, gia đình người Mông
khi có người thân mất đi, nhà nghèo có thể không mổ súc vật làm đám ma, nhưng tuyệt
đối không thể thiếu tiếng khèn.Trong tang lễ, dù là đám ma khô hay ma tươi thì cây khèn
được sử dụng như một hiệu lệnh chỉ dẫn trình tự các nghi lễ. Tiếng khèn là tiếng khóc
than, là lời tâm sự giữa người sống với người đã chết, giữa cõi trần với cõi âm, cây khèn
được hình tượng hóa như con người: “Ai sẽ đi xuống huyệt/ Gầu khèn sẽ dẫn đón ngươi/
Đi về xuống huyệt” [10]; “Mọi tháng mọi năm/ Gầu khèn vẫn treo vách nhà/ Năm nay gầu
khèn mới rền rĩ/ Mới đi mời được gầu pli, đrâu pli dậy từ huyệt ra” [5].
Biểu tượng khèn còn xuất hiện trong lời thề nguyền thủy chung: "Để khi em chết
đi/ Anh không thương đành/ Thương nhớ anh dùng tay trái bấm lỗ ngón/ Tiễn đưa em lên
trời cao con đường tối tăm" [4]. Sự hòa quyện của tiếng khèn với tiếng trống được thể hiện
bằng hình ảnh rất độc đáo: “Sẽ mời gầu khèn đrâu trống/ ... Làm hoa mưa trộn hoa nắng/
Làm hoa khèn trộn hoa trống” [5].
Nếu lanh là biểu tượng vẻ đẹp, tính cách và số phận người phụ nữ Mông, thì cây
khèn được coi là biểu tượng của người đàn ông Mông. Với người nam giới Mông, cây
khèn là vật bất ly thân, họ mang theo khèn lên nương, xuống chợ, đến lễ hội... tiếng khèn
giúp cho người lao động quên đi mệt nhọc, vơi bớt nỗi buồn. Vượt ra khỏi chức năng chủ
đạo là nhạc cụ thiêng, sau này cây khèn đã đảm nhiệm thêm chức năng giải trí (người ta
có thể dùng khèn thổi các bài dân ca) và chính khả năng thổi khèn, múa khèn được coi là
một trong những chuẩn mực đánh giá tài năng của các chàng trai Mông.
Từ vai trò trong đời sống và tần số xuất hiện nhiều trong thơ ca dân gian, cây khèn
và lanh chính là các biểu trưng của nguồn gốc tộc người Mông.
2.3. Biểu tượng con đường
Quan niệm “con đường” của người Mông phản ánh rõ nét kiểu tư duy kết hợp cái lí
của tự nhiên với các quy ước, luật tục để suy đoán, cắt nghĩa các vấn đề xã hội, con người
mà người ta hay gọi là “cái lí người Mông” là những quy định, những vạch, những sợi dây
bao trùm lên toàn bộ đời sống, đó là“txox cêr uô nênhs” (Đường làm người).
Gắn chặt với nhân sinh quan, vũ trụ quan, những quan niệm ứng xử giữa con người
với con người và con người với thiên nhiên của người Mông, biểu tượng "đường" xuất
hiện trong thơ ca dân gian đáp ứng nhu cầu cần thiết về "đường lí đường lẽ"(cêr lik cêr
chei) của đồng bào. Trong nghĩa gốc, con đường là lối đi dẫn bước chân mỗi người đến
nơi cần đến. Trong nghĩa biểu tượng, con đường chính là cuộc hành trình để tìm đến cái
đích cuối cùng... Con đường có khi là cuộc hành trình riêng lẻ của một người, có khi lại là
73
Hùng Thị Hà
con đường chung mà nhiều người cùng bước qua với bao niềm vui, hạnh phúc lẫn những
gian nan, cay đắng. Chính nét nghĩa này tạo cho con đường ý nghĩa khái quát thành biểu
tượng cho dòng đời, đường đời trở đi trở lại nhiều lần trong các bài ca dân gian Mông:
“Anh và em từng chắp nối con đường bè bạn” [8], “Đôi ta kết nghĩa bạn tình hạnh phúc
dường này/ Ta chỉ có đường thuận mà không có đường lìa” [4], “Cha mẹ bắt em đi lấy
chồng/ Em đi cách núi cách sông/ Sao chàng lại bảo em đi con đường vui sướng” [8].
Người Mông quan niệm, mọi lĩnh vực của đời sống đều được xác định như một con
đường: đường đấu tranh, đường sản xuất, đường làm người, đường yêu đương, đường ăn,
đường mặc, đường sống và cả đường chết... Trên hành trình dài đó, con người khi thì băn
khoăn vì: “Cơm ăn nhà ta như cỏ già lơ thơ trên hang đá/ Tiền bạc thì còn ở tận đường
xa” [8]; có lúc lại lạc vào "buồn bã con đường đầy mây mù/ Khác nào người mù không
biết lối”, “Trâu còn không biết thân trâu đeo ách/ Em không biết thân em đi làm dâu là
con đường cay cực”để rồi cháy lên niềm khao khát “Tôi vung chân vung tay đi khắp mọi
đường/ Lúc ấy tôi vỗ chân nhẩy/ Vui mừng như người đi làm ăn” [8]. Điều đó xuất phát
từ tâm trạng, cuộc đời và số phận của người phụ nữ Mông trong xã hội xưa. Mặc dù biết
“Đường làm dâu con đường như ống đũa/ Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa" [4]
nhưng họ đâu có quyền lựa chọn; hạnh phúc cả cuộc đời lại do người khác quyết định, sắp
đặt vì thế không tránh khỏi những lo âu: “Có ngày mình đi lấy chồng/ Mình sẽ gặp con
đường nước mắt...” [8]. Ở nhiều trường hợp hình ảnh con đường còn được sử dụng nhằm
khẳng định tình yêu, lòng chung thủy và sự gắn bó: “Gầu Mông nói đrâu Mông/ Hai ta ăn
cùng gác/ Nếu trời buộc phải thác /sẽ đi chung một lối/ Để đi cùng một đường” [3] cũng
có khi là lời an ủi "Đường làm dâu còn biết đi biết về/ Đường chết mới như tảng đá rêu
lăn hố sâu" [6].
Trong các đường đó thì đường yêu đương mang nội dung rộng hơn: đó là những quy
định, những điều cấm kị từ khi tìm hiểu đến việc kết hôn: “Cái lệ cưới xin, dệt vải phải có
khung có thoi/ Cái lí dựng vợ gả chồng, mối mai tôi đã biết” [8] và đường vợ chồng: “Đã
lấy người nào phải ôm người ấy, chết theo người ấy/... Đã lấy người nào phải theo người
ấy, ôm người ấy mà chết” [8].
Có thể nói, trong thơ ca dân gian Mông, bên cạnh ý nghĩa biểu trưng là dòng đời,
đường đời, biểu tượng “đường” còn mang ý nghĩa là đạo lí làm người và được tác giả dân
gian Mông sử dụng như một biểu tượng cảm nhận về cuộc đời: “Mình ạ! Con đường trẻ
không dài/ Con đường già chóng đến/ Đời người như bóng râm từ từ ngả bên đồi” [8];
con đường trở thành biểu tượng dẫn lối cho khát vọng sống, tình yêu hạnh phúc: "Giá em
may được anh/ Giá anh may được em/ Đôi ta đem đường chơi bời chôn sâu góc trời/... Đôi
mình đem đường lớt phớt chôn vùi mặt đất" [6].
2.4. Biểu tượng nước
Trong thơ ca dân tộc Tày biểu tượng nước được xem như yếu tố tình cảm: “Thương
nhau nước đựng vào sàng/ Không thương nước đựng trong cang còn rò”, thơ ca dân gian
Mường biểu tượng nước thể hiện những suy tưởng về lẽ đời “Thà nước đổ về sông/ Còn
mong có lúc được vác/ Nước đã đổ xuống cát/ Còn cầm bát đợi làm chi mà sầu”. Trong
74
Những biểu tượng phổ biến trong thơ ca dân gian Mông
thơ ca dân gian Mông về tình yêu biểu tượng nước tượng trưng cho một giá trị, một quyền
năng, là những gì trong sáng, thanh khiết: “Áo này, áo em may/ Bẩn bám, chàng đem đi
giũ/ Bụi bám, chàng mang đi giặt/ Giặt thì giặt cho sạch nơi hồ nước biếc” [8]; “Được vật
trao anh đem về giũ nước suối trong” [8]; khẳng định sự bền chặt của tình yêu đôi lứa:
“Hai đứa con gái yêu con trai/ Như con suối chảy xiết qua thung/ Chảy tràn lên cây ngải”
[6]; thể hiện khát khao yêu đương mãnh liệt “Đôi ta kết duyên cùng nhau/ Chung uống
chén nước lạnh/ Cũng ngọt như mật ong khoái” [6], nước trở thành sự đồng lòng và ước
mơ về một cuộc sống gia đình hạnh phúc: “Giá em lấy được anh/ Em sẽ lo chậu nước
sạch/ Cho anh rửa mặt,../ Em sẽ đổ chậu nước trong/ Cho anh rửa chân” [6].
Từ đặc tính về sự trôi chảy, nước trở thành biểu tượng của dòng đời, số phận: “Nước
chảy được cho nước chảy/ Đất không chảy được để đất đứng/... Đi được em cứ đi/ Anh
không đi dược để anh chạy quanh đồi núi khóc” [6]. Đôi khi biểu tượng nước lại như một
lời thề chung thủy, cũng có khi là oán than, thất vọng, ngậm ngùi: “Nước lạnh quyết không
để nước nóng trộn/ Em hẹn làm bảy năm con gái chờ anh/ Bây giờ nước lạnh đã để pha
nước nóng pha” [8].
Không chỉ xuất hiện trong thơ ca tình yêu, biểu tượng nước còn trở đi trở lại trong
các bài ca nghi lễ tang ma của người Mông: “Nước ở nước trắng ngần/ Nước làm con
người nước rửa chân/ Nước ở nước trong vắt/ Nước làm con người nước rửa mặt” [5]. Với
góc nhìn nhận sâu rộng hơn biểu tượng nước được linh thiêng hóa gói trọn nỗi đau, sự tiếc
thương của người sống đối với người đã chết.
Có thể nói, trong thơ ca dân gian Mông biểu tượng nước đã cho người đọc một hình
dung sắc nét tâm trạng và số phận của con người.
2.5. Biểu tượng kỉ vật tình yêu
Biểu tượng đôi bồ giáo, chiếc thắt lưng đôi xà cạp, khăn đội đầu đi vào thơ ca dân
gian, đặc biệt thơ ca về tình yêu và được sử dụng như một ám ảnh nghệ thuật, một tín hiệu
thẩm mĩ độc đáo: "Nhớ nhau em tặng anh chiếc dây lưng xanh/ Anh đem về cất kĩ trong
hòm/ Trời nắng anh hong trên mỏm đá/ Nhìn thắt lưng anh khuây khỏa nhớ mong" [8].
Trong cuộc sống hàng ngày, thắt lưng, bồ giáo, đôi xà cạp, chiếc khăn vừa là vật
dụng gần gũi, thân thiết không chỉ có chức năng che chắn, bảo vệ mà còn là trang phục
góp phần tôn lên vẻ đẹp của người con gái. Trong thơ ca dân gian, hình ảnh chiếc thắt
lưng và đôi bồ giáo chỉ người con gái xinh đẹp, khéo léo, tháo vát, "Chiếc dây lưng lanh
thêu hoa hình con ốc/ Sợi to sợi nhỏ do bàn tay em se", "Cô quấn xà cạp gọn xinh như
trôn ốc vặn/ Cô lấy chồng lo toan được việc nhà". Đó là cái cớ để trai gái trao duyên, tình
tự thể hiện khát vọng, ước mơ về tình yêu theo cách riêng: "Tình nghĩa đôi ta như chiếc
thắt lưng nhiễu anh tặng mình" [8]; là biểu tượng cho một tình yêu thủy chung, bền vững:
"Anh không có vòng nhẫn vàng cho mượn/ Để anh cho mượn chiếc bồ giáo thêu hoa đôi/
Cái bồ giáo thêu hoa tròn/ Em về ngày nắng đem phơi/ Ngày mưa đem cất kĩ đáy hòm/
Để gió lùa không tới/ Cho gió thổi không bay" [4]. Tình yêu luôn đồng hành với nỗi nhớ,
nhưng trong thơ ca dân gian Mông nỗi nhớ không xa vời, hư ảo bởi nó gắn với những gì
thật gần gũi: "Đôi ta yêu nhau mình tặng ta chiếc khăn đội đầu/ Mỗi lần đi làm nương/
75
Hùng Thị Hà
Nhớ mình, ta để khăn trên mô đá/ Thấy khăn là thấy mình hồi nào cùng ta trò chuyện bên
nhau" [8]. Câu thơ cũng trở nên độc đáo bởi cách bộc lộ niềm thương nỗi nhớ: "Ta lê bước
về nhà mà hồn còn ngủ trong thắt lưng em" “Xa anh, hồn em luôn ở đuôi khăn anh” [7].
Dù không một từ “nhớ” nhưng chỉ riêng hình ảnh "hồn còn ngủ trong thắt lưng" và “ngủ
ở đuôi khăn” nỗi nhớ đã tràn đầy trong thơ.
Đến với mỗi bài thơ ta sẽ cảm nhận được lối tư duy đặc biệt của người đang yêu:
"Giáo bồ may tím xanh/ Mang về không dùng đem để dành/ ... Anh cất kĩ đáy hòm tơ/
Anh giặt vò không giặt giũ/” [4]. Biểu tượng chiếc bồ giáo đem lại sự bất ngờ vì nó có thể
"dỗ dành anh chín mươi tám tấm lòng, chín mươi tám lá gan". Cách bày tỏ tình cảm hồn
nhiên, mộc mạc, tinh tế và sâu sắc.
Đi vào thơ ca dân gian Mông chiếc thắt lưng, đôi bồ giáo, xà cạp, chiếc khăn trở
thành biểu tượng của nỗi nhớ. Tác giả dân gian đã thổi hồn mình vào những vật dụng
thông thường để khắc họa vẻ đẹp của người con gái và thể hiện sinh động các cung bậc
cảm xúc.
2.6. Biểu tượng cái chết
Trong thơ ca dân gian Mông, thường khi nói đến cái chết thì hình tượng lá ngón và
cuộn dây lại hiện ra. Cái chết, đôi khi được nói đến một cách bình thản thể hiện khát vọng
tự do. Sự xuất hiện của lá ngón và cuộn dây thừng như một sự giải thoát và phản kháng.
Khi đó, cái chết như là sự giác ngộ đến tận cùng của sự sống.
Trong thơ ca dân gian Mông, hình ảnh lá ngón có