Những giải pháp cơ bản hướng đến thúc đẩy và nâng cao việc giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị theo công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH

Tóm tắt Thích ứng với sự thay đổi và phát triển, ngày 19/7/2019 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH hướng dẫn về việc thay đổi nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy, học tập các môn Lý luận chính trị. Từ việc lột tả và phân tích những vấn đề liên quan đến những “điểm trội”, thách thức cơ bản khi thay đổi chương trình, giáo trình các môn Lý luận chính trị theo chương trình mới, bài viết gợi mở các giải pháp hướng đến thúc đẩy và nâng cao việc giảng dạy, học tập các môn Lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những giải pháp cơ bản hướng đến thúc đẩy và nâng cao việc giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị theo công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 30 (Tháng 12 - 2019)110 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN HƯỚNG ĐẾN THÚC ĐẨY VÀ NÂNG CAO VIỆC GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ THEO CÔNG VĂN SỐ 3056/BGDĐT-GDĐH TRẦN MAI ƯỚC Tóm tắt Thích ứng với sự thay đổi và phát triển, ngày 19/7/2019 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH hướng dẫn về việc thay đổi nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy, học tập các môn Lý luận chính trị. Từ việc lột tả và phân tích những vấn đề liên quan đến những “điểm trội”, thách thức cơ bản khi thay đổi chương trình, giáo trình các môn Lý luận chính trị theo chương trình mới, bài viết gợi mở các giải pháp hướng đến thúc đẩy và nâng cao việc giảng dạy, học tập các môn Lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Lý luận chính trị, Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH, giảng dạy, phương pháp dạy học, giáo dục đại học Abstract Adapting to change and development, on July 19, 2019, the Ministry of Education and Training issued official dispatch No. 3056 / BGDĐT-GDĐH providing guidance on changes in curriculum content, textbook, and teaching and studying methods of political theory subjects. From describing and analyzing issues related to “dominant points”, basic challenges when changing curriculum content, textbook of Political theory subjects under the new program, the article suggests solutions to promote and improve the teaching and learning of political theory subjects in the current period. Keywords: Political theory subjects, official dispatch No.3056/BGDĐT-GDĐH, teaching, teaching methods, higher education Đặt vấn đề Theo một số nhà nghiên cứu, năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đang tụt hạng; sự tụt hạng xảy ra ở cả 3 tiêu chí chính: Trí tuệ, kinh tế tri thức và đẳng cấp của giáo dục đại học (ĐH). Những thực tế này phản ánh chất lượng giáo dục ĐH của Việt Nam còn thấp so với các nước trên thế giới. Chúng tôi mạnh dạn cho rằng, một trong những nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là phương pháp dạy học còn lạc hậu, nặng nề về thông báo và truyền thụ tri thức lý thuyết một chiều mà chưa chú ý phát triển năng lực người học, chưa coi trọng khả năng tự học, tự nghiên cứu và quá trình trải nghiệm sáng tạo để hình thành năng lực, thái độ và kỹ năng cho người học. Cả thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, sinh viên là nguồn lực quan trọng cho đội ngũ trí thức. Sinh viên không chỉ cần có kiến thức chuyên môn vững vàng mà cần phải có những phẩm chất chính trị, đạo đức, kỹ năng và lý tưởng sống cao đẹp. Các môn Lý luận chính trị (LLCT) trang bị thế giới quan, nhân sinh quan Số 30 (Tháng 12 - 2019) 111 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ cách mạng và phương pháp luận khoa học, đồng thời bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức cho sinh viên, góp phần phát triển con người toàn diện. Thực tiễn trong quá trình giảng dạy các môn LLCT thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần nghiên cứu để tháo gỡ, và việc thay đổi nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy, học tập các môn LLCT theo hướng gắn lý luận với thực tiễn để đáp ứng công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) trong giai đoạn gần đây là nhu cầu mang tính tất yếu khách quan. 1. Những “điểm trội” cơ bản khi thay đổi chương trình, giáo trình các môn LLCT theo Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH Ngày 28/3/2014, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 94-KL/TW về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân. Triển khai kế hoạch số 319-KH/ BTGTW ngày 3/4/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ GD&ĐT đã tổ chức biên soạn chương trình, giáo trình các môn LLCT dùng chung trong đào tạo trình độ đại học đối với tất cả các cơ sở giáo dục đại học được áp dụng từ năm học 2019 - 2020. Theo đó, những môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo trình độ đại học thực hiện theo Kết luận số 03-KL/ BTGTW ngày 25/4/2017 và Kết luận số 04-KL/ BTGTW ngày 19/9/2017 của Ban Tuyên giáo Trung ương. Ngày 19/7/2019 Bộ GD&ĐT đã có Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH hướng dẫn việc thực hiện chương trình, giáo trình các môn LLCT, theo đó, các chương trình đào tạo LLCT được thể hiện chi tiết, cụ thể như sau: * Không chuyên về LLCT: Triết học Mác - Lênin (3 tín chỉ); Kinh tế chính trị Mác - Lênin (2 tín chỉ); Chủ nghĩa xã hội khoa học (2 tín chỉ); Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2 tín chỉ); Tư tưởng Hồ Chí Minh (2 tín chỉ). * Chuyên về LLCT: Triết học Mác - Lênin (4 tín chỉ); Kinh tế chính trị Mác - Lênin (3 tín chỉ); Chủ nghĩa xã hội khoa học (2 tín chỉ); Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (3 tín chỉ); Tư tưởng Hồ Chí Minh (2 tín chỉ). Việc thay đổi chương trình, giáo trình các môn LLCT như trên đã giải quyết được những bất cập lớn trong quá trình giảng dạy và học tập các môn LLCT theo chương trình cũ trước đây1, thể hiện cơ bản ở các điểm: - Giúp cho sinh viên nhận thấy rõ được nội dung chủ nghĩa Mác - Lênin gồm có ba phần chủ yếu (Triết học Mác - Lênin; Kinh tế chính trị Mác - Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học). - Thể hiện đúng nghĩa là một môn khoa học trong chương trình đào tạo của nhà trường khi xác định rõ: đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu riêng biệt. - Việc bố trí giảng viên giảng dạy LLCT đúng với chuyên ngành chuyên sâu mà giảng viên được đào tạo, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo2. - Nội dung các môn LLCT vẫn nặng tính hàn lâm, ít có sự bổ sung, phát triển, gắn liền với “hơi thở” của thời cuộc như: kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ, nhân quyền, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức, cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh... Việc thay đổi này, phần nào đáp ứng được các nội dung đã nêu, mặc dù còn khiêm tốn và chưa thực sự phong phú, đa dạng. - Khắc phục được số tiết học “nghèo nàn” so với nội dung cần chuyển tải ở trên lớp của các môn LLCT. 2. Những thách thức trong quá trình triển khai thực hiện Công văn số 3056/BGDĐT- GDĐH Việc đổi mới chương trình, giáo trình các môn LLCT (chuyên và không chuyên) là yêu cầu cần thiết cho việc đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, phù hợp với xu thế vận động và phát triển trong bối cảnh hiện nay. Quá trình triển khai thực hiện nội dung Công văn số Số 30 (Tháng 12 - 2019)112 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 3056/BGDĐT-GDĐH, chúng tôi nhận thấy còn vướng phải những tồn tại và thách thức cần vượt qua. * Đối với giảng viên: - Việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của giảng viên phù hợp với chuyên ngành giảng dạy chưa được quan tâm, chú trọng đúng mức ở chính bản thân giảng viên tham gia giảng dạy và cơ sở đào tạo, nơi quản lý giảng viên giảng dạy các môn LLCT. - Hạn chế về kỹ năng sư phạm, chưa biết sử dụng các phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy một cách phù hợp (các phần mềm ứng dụng vi tính cơ bản, Projector) của một số giảng viên tham gia giảng dạy LLCT dẫn đến chưa thực sự tạo sự hứng thú của học viên, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. - Thiếu sự kết hợp với công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) để làm giàu thêm vốn tri thức lý luận, tăng thêm kiến thức thực tiễn của giảng viên LLCT cũng là một tồn tại cố hữu. Việc giảng viên thuần về giảng dạy, tập trung cho giảng dạy theo hướng “thợ giảng” là thực trạng đã và đang diễn ra ở một số cơ sở đào tạo. Việc chưa chú trọng công tác NCKH đã làm cho giảng viên thiếu trưởng thành về mặt chuyên môn, không tự tin vào bài giảng, không tạo thêm động lực, nguồn cảm hứng mới cho chính bản thân họ trong quá trình thúc đẩy sự say mê nghề nghiệp, biết làm chủ tri thức trên cơ sở độc lập suy nghĩ, sáng tạo và vận dụng tri thức vào bài giảng cũng như thực tiễn cuộc sống. Vì thế, giảng viên không thực sự có quá trình tích luỹ về lượng để biến đổi về chất; tri thức không được mở rộng và chuyên sâu. - Sự liên hệ với thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn, cập nhật thông tin kinh tế - xã hội với thực tiễn của thế giới, của đất nước, của địa phương, của các đối tượng người học ở một số giảng viên còn hạn chế. Sự liên hệ này tuỳ thuộc vào phương pháp của giảng viên, có thể giảng viên tự liên hệ trong bài giảng và giúp cho học viên thấy được sự thể hiện trong thực tế cuộc sống hoặc giảng viên có thể gợi mở, trao đổi với học viên, chỉ ra thực trạng của địa phương, đất nước, từ đó khái quát, trừu tượng hóa làm sáng tỏ về mặt lý luận là điều cần thiết vừa góp phần nâng cao chất lượng bài giảng, vừa lôi cuốn và thu hút được người học trong quá trình theo dõi bài giảng, tránh tâm lý “nản” khi học các môn LLCT. * Đối với sinh viên: - Hạn chế về nền tảng kiến thức lịch sử, xã hội, ít trải nghiệm thực tiễn, ít hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội quốc tế và trong nước của sinh viên khi vừa rời trường phổ thông cũng là thách thức đối với sinh viên trong việc tiếp thu tốt kiến thức các môn LLCT. - Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù đã hơn 30 năm đổi mới, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp nên thành quả mà chúng ta đạt được còn chưa bắt kịp được với xu thế phát triển như vũ bão về kinh tế, xã hội toàn cầu. Nhiều mặt trái của kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa thời kỳ đầu và hội nhập quốc tế đã nảy sinh trong quá trình vận động và phát triển, cùng với đó là hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, phong trào cộng sản, công nhân thế giới đã thoái trào, trong khi chủ nghĩa tư bản ở nhiều nước đạt được những thành tựu to lớn tất cả những điều đó đã làm cho niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần học tập LLCT trong sinh viên bị ảnh hưởng, tác động và chi phối ít nhiều khi xét về khía cạnh phương hướng và định hướng giá trị. 3. Gợi mở những giải pháp cơ bản hướng đến thúc đẩy và nâng cao việc giảng dạy, học tập các môn LLCT theo Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH Tại Kết luận 94-KL/TW năm 2014, ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư đã nhấn mạnh: Số 30 (Tháng 12 - 2019) 113 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ “Tiếp tục đổi mới việc học tập (bao gồm cả nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, xây dựng đội ngũ giáo viên) LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân có tầm quan trọng chiến lược” [1]. Chúng tôi cho rằng, để thúc đẩy và nâng cao việc giảng dạy, học tập các môn LLCT theo Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH, cần tập trung vào một số giải pháp như sau: 3.1. Giải pháp trước mắt Thứ nhất, sắp xếp giảng viên giảng dạy đúng chuyên môn cùng với việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho giảng viên. Tiến hành rà soát lại đội ngũ giảng viên về trình độ chuyên môn được đào tạo, các chuyên môn đã được bồi dưỡng và vị trí công tác đang đảm nhiệm xem đã hợp lý và phù hợp chưa. Nhất thiết cần đưa ra các tiêu chí đối với giảng viên giảng dạy cho từng hệ học, từng môn học, từng chuyên ngành. Từ đó, bố trí, sắp xếp làm sao để giảng viên có thể dạy đúng chuyên môn được đào tạo. Cân đối số tiết giảng sao cho hợp lý, tránh trường hợp giảng viên này dạy quá nhiều trong khi giảng viên khác dạy ít. Ngoài ra cũng cần có kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho giảng viên giảng dạy các môn LLCT. Chấm dứt tình trạng cử nhân dạy cử nhân, chưa có bằng sau đại học giảng dạy đại học (như theo quy định tại Luật Giáo dục đại học, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014, 2015, 2018, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2019). Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy các môn LLCT với NCKH. Các trường và hơn hết tự bản thân giảng viên cần ý thức được tầm quan trọng, cần thiết của công tác này. Cần xem NCKH là một nhiệm vụ quan trọng để các giảng viên có điều kiện, có động lực bổ sung, hoàn thiện chuyên môn. Giảng viên LLCT cần phải nhận thức và xác định NCKH là một trong những yếu tố quan trọng nhất [4, tr.23] góp phần nâng cao chất lượng đào tạo các môn LLCT trong bối cảnh muốn nâng cao chất lượng đào tạo. Nên có quy định mang tính định lượng rõ ràng là mỗi giảng viên trong mỗi năm học cần có bao nhiêu (01 hoặc 2) bài báo khoa học trong nước, bao nhiêu (01 hoặc 2) bài báo đăng toàn văn trong kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế Làm được điều này sẽ tránh được tình trạng “thợ giảng”3, nâng cao công tác chuyên môn của giảng viên và hoạt động NCKH của bộ môn, khoa và của nhà trường. Thứ ba, trong quá trình giảng dạy các môn LLCT, giảng viên cần đặt người học vào vị trí trung tâm, phát huy tính năng động, sáng tạo của người học, khuyến khích sinh viên tích cực NCKH, tham gia giải quyết các vấn đề mà thực tiễn kinh tế - xã hội đang đặt ra. Điều này là phù hợp với xu thế và bối cảnh hiện nay, và cũng đã được nhấn mạnh trong Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư: “Phương pháp giảng dạy và học tập phải sinh động, mềm dẻo, có thực tiễn và phù hợp với từng cấp; tạo được sự hứng thú và có trách nhiệm cho người dạy và người học; người học thích đọc hơn, có trách nhiệm phải học; người dạy có hứng thú hơn, có trách nhiệm cao hơn” [1]. Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp đánh giá trong quá trình giảng dạy các môn LLCT. Chúng tôi cho rằng, mỗi lớp học có Sơ đồ 1. Hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá trong dạy học Số 30 (Tháng 12 - 2019)114 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đối tượng sinh viên khác nhau về nhận thức, thái độ, do vậy, trong quá trình giảng dạy, bằng kinh nghiệm của “trực giác” của mình, giảng viên cần lựa chọn 01 phương pháp kiểm tra đánh giá cho phù hợp với đối tượng học. Và phần này chỉ nên diễn ra ở 50% tổng điểm của khóa học, còn 50% còn lại, đánh giá chung theo quy định hiện hành của bộ môn, của khoa, của nhà trường (Sơ đồ 1). 3.2. Giải pháp lâu dài Cùng với việc gợi mở những giải pháp mang tính trước mắt, về lâu dài chúng tôi mạnh dạn cho rằng cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như sau: Một là, để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, phản ánh thực tiễn đang diễn ra, nội dung các môn học cần tiếp tục cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện theo hướng: + Các môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học: Cần đề cập đến những trào lưu tư tưởng triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội trước đó và cả những trào lưu tư tưởng đương đại để giúp sinh viên tiếp cận một cách logic về sự ra đời học thuyết Mác - Lênin, mối tương quan với các trào lưu tư tưởng khác trong lịch sử và đương đại. + Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh: Cần luận giải nhiều hơn một số tư tưởng ở Việt Nam trước và trong thời đại Hồ Chí Minh; nhấn mạnh Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng như thế nào vào thực tiễn của Việt Nam. + Môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Nên mạnh dạn có những tiết hoặc tiểu tiết liên quan đến đánh giá về ưu điểm và tồn tại, hạn chế trong các chủ trương, đường lối của Đảng cũng như việc triển khai thực hiện những chủ trương, đường lối trong thực tiễn cuộc sống. Hai là, bám vào các quan điểm chỉ đạo trong Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư là: “Nội dung chương trình học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân phải tập trung xây dựng cho tốt, phù hợp cho từng đối tượng học, từng cấp học, bậc học từ thấp đến cao”; “Đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm tạo bước tiến mới, có kết quả, chất lượng cao hơn” [1]. Chúng tôi nhận thức được rằng, giáo trình là tài liệu học tập, giảng dạy được thiết kế và biên soạn dựa trên cơ sở chương trình môn học với mục đích để làm tài liệu giảng dạy chính thức cho giảng viên, làm tài liệu học tập chính thức cho sinh viên. Để giáo trình có sự ổn định tương đối và sức sống lâu dài (ít nhất là trong 01 khóa học), nên nghiên cứu để xây dựng giáo trình các môn LLCT theo hướng: + Đưa vào giáo trình những vấn đề thực tiễn của đất nước và thời đại đang đặt ra. + Hình thành giáo trình khung, với các kiến thức cơ bản. + Các cơ sở giáo dục đại học có thể biên soạn giáo trình riêng trên cơ sở chương trình khung, bám sát nhu cầu của từng lĩnh vực. + Cần có giáo trình dành riêng cho từng khối ngành như khối khoa học tự nhiên và khối kỹ thuật; khối kinh tế - tài chính; khối khoa học xã hội và nhân văn; khối y - dược... + Nhân sự biên soạn giáo trình phải có đủ trình độ và tính chuyên sâu về lĩnh vực tri thức của giáo trình. Ba là, tác động của kinh tế thị trường làm cho không ít giảng viên mất đi nhiệt huyết cống hiến. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và có chế độ, cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy các môn LLCT theo hướng: + Chính sách lương hợp lý để giảng viên đủ sống bằng nghề của mình, chuyên tâm vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy, NCKH. + Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để thu hút các nhà khoa học, các giảng viên giỏi trong việc tham gia nghiên cứu và giảng dạy LLCT tại các cơ sở giáo dục đại học. Số 30 (Tháng 12 - 2019) 115 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ + Quy định bắt buộc 01 năm/01 lần giảng viên tham gia nghiên cứu và giảng dạy LLCT phải tham gia tập huấn thực tế để nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật thông tin, tri thức về kinh tế - xã hội ở trong và ngoài nước, phục vụ cho bài giảng. Thay lời kết Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực cố gắng của các thế hệ giảng viên LLCT, việc giảng dạy LLCT tại các cơ sở giáo dục đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực và phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Các công tác: Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học; tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo theo hướng phát triển năng lực và đáp ứng yêu cầu xã hội; xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên đại học đủ về số lượng và chất lượng, tăng cường công tác NCKH được xem là những yếu tố cốt lõi, mang tính nền tảng, quyết định và nâng cao chất lượng đào tạo các môn LLCT trong quá trình triển khai thực hiện Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay. T.M.Ư (PGS.TS, Chánh văn phòng Trường ĐH Ngân hàng Tp. HCM) Chú thích 1 Theo Quyết định số 52/2008/QĐ-BGDĐT (Quyết định ban hành chương trình các môn LLCT trình độ cao đẳng, đại học cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), các môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học đã hợp thành một môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đổi thành môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh được giữ nguyên. 2 Trước đây, một giảng viên LLCT có thể phải dạy cả phần Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi người dạy hiểu chưa sâu sắc thì không thể truyền thụ và giúp sinh viên hiểu sâu sắc về kiến thức môn học. 3 Vẫn còn tồn tại thực tế giảng viên giảng quá nhiều, thành “thợ giảng” để lấy tiết giảng thừa bù đắp lại cho số tiết NCKH còn thiếu. Điều này là mâu thuẫn (vì chiều ngược lại là không cho lấy số tiết dư của NCKH để bù cho tiết giảng dạy) và không chính xác, không đúng với quy định hiện hành của giảng viên, đó là phải thực hiện song song hai nhiệm vụ: Giảng dạy và NCKH. Tài liệu tham khảo 1. Ban Bí thư (2014), Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 về việc tiếp tục đổi mới việc học tập Lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân, https://thukyluat.vn/vb/ket-luan-94-kl-tw- nam-2014-tiep-tuc-doi-moi-viec-hoc-tap-ly- luan-chinh-tri-trong-he-thong-giao-duc-quoc- dan-3d7a5.html, truy cập ngày 09/10/2019. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH ngày 19/7/2019 về việc