Tóm tắt. Sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự hình thành xã hội thông
tin và nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi căn bản các đặc tính văn hóa
giáo dục đã hình thành qua nhiều thế kỉ. Sự thay đổi này buộc người GVCN
phải hình thành những năng lực mới để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn và
yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp.
Những năng lực này có những cái hoàn toàn mới đặc trưng cho thời đại, có
những cái vẫn gọi tên như cũ nhưng thay đổi và bổ sung về nội dung cho
phù hợp hơn. Năng lực của người GVCN không chỉ được hình thành trong
quá trình đào tạo ở trường sư phạm mà quan trọng hơn là chúng được tôi
luyện trong thực tiễn giáo dục. Những giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp,
có tinh thần trách nhiệm mới có thể tự học tập, nghiên cứu để phát triển
năng lực nghề nghiệp của mình trong đó có năng lực làm công tác chủ nhiệm
lớp.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những năng lực cần có của người giáo viên chủ nhiệm lớp trong thời đại ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
IER., 2011, Vol. 56, pp. 133-137
NHỮNG NĂNG LỰC CẦN CÓ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN
CHỦ NHIỆM LỚP TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Phan Thanh Long
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail: phanthanhlongqb@gmail.com
Tóm tắt. Sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự hình thành xã hội thông
tin và nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi căn bản các đặc tính văn hóa
giáo dục đã hình thành qua nhiều thế kỉ. Sự thay đổi này buộc người GVCN
phải hình thành những năng lực mới để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn và
yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp.
Những năng lực này có những cái hoàn toàn mới đặc trưng cho thời đại, có
những cái vẫn gọi tên như cũ nhưng thay đổi và bổ sung về nội dung cho
phù hợp hơn. Năng lực của người GVCN không chỉ được hình thành trong
quá trình đào tạo ở trường sư phạm mà quan trọng hơn là chúng được tôi
luyện trong thực tiễn giáo dục. Những giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp,
có tinh thần trách nhiệm mới có thể tự học tập, nghiên cứu để phát triển
năng lực nghề nghiệp của mình trong đó có năng lực làm công tác chủ nhiệm
lớp.
1. Mở đầu
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp là người thay mặt nhà trường, thay mặt
hiệu trưởng quản lí, giáo dục tập thể học sinh một lớp do hiệu trưởng phân công.
Chính vì vậy, ngoài chức năng dạy học, họ vừa là nhà giáo dục, vừa là nhà quản
lí, tổ chức, nhà tư vấn cho tập thể và cá nhân học sinh. GVCN là người chịu trách
nhiệm chính và trực tiếp về kết quả học tập và rèn luyện của học sinh lớp mình phụ
trách. Họ là người có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nhân cách học sinh. Học
sinh càng nhỏ tuổi thì vai trò và ảnh hưởng của giáo viên chủ nhiệm càng lớn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm về năng lực chủ nhiệm lớp
Năng lực là tổ hợp các đặc điểm của cá nhân giúp cho cá nhân hoạt động đạt
kết quả tốt trong một hay một số lĩnh vực nhất định.
133
Phan Thanh Long
Năng lực chủ nhiệm lớp là những thuộc tính nhân cách giúp cho người giáo
viên hoàn thành tốt vai trò, chức năng người giáo viên chủ nhiệm lớp trong những
điều kiện nhất định.
Có thể nghiên cứu năng lực công tác chủ nhiệm lớp ở góc độ cấu trúc nhân
cách, cũng có thể xem xét nó trong các nội dung công việc cụ thể của người giáo
viên chủ nhiệm. Dưới góc độ giáo dục học, chúng tôi xem xét năng lực chủ nhiệm
lớp của người giáo viên theo các nội dung công việc.
Ngoài những yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống đối với người
GVCN lớp là những năng lực nói chung và năng lực nghề nghiệp nói riêng.
2.2. Những năng lực cần có của người giáo viên chủ nhiệm lớp
Qua thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi thấy người GVCN lớp ngày nay cần phải
có những năng lực nghề nghiệp cơ bản sau đây:
- Có hiểu biết sâu sắc về đặc điểm tâm, sinh lí học sinh và lí luận giáo dục. Cụ
thể, người GVCN lớp phải hiểu rõ đặc điểm chung về tâm, sinh lí lứa tuổi học sinh
lớp mình chủ nhiệm đồng thời hiểu rõ đặc điểm riêng của từng cá nhân học sinh để
áp dụng những phương pháp giáo dục phù hợp. Ngày nay, dưới tác động của nhiều
yếu tố, tốc phát triển tâm sinh lí của học sinh ngày càng nhanh. Độ tuổi dậy thì
đến sớm hơn, các em hiểu biết nhiều hơn, đời sống tâm lí phong phú và phức tạp
hơn. . . Các em học sinh ngày nay phần lớn được chăm sóc, chiều chuộng hơn nhưng
cũng chịu nhiều áp lực hơn và dễ có những phản ứng tiêu cực như bỏ học, bỏ nhà,
thậm chí là tự tử tập thể. . .
Trên cơ sở những hiểu biết đó, GVCN cần nắm vững và quán triệt nguyên tắc
tiếp cận tích cực đối với từng học sinh, và cả tập thể lớp, khơi dậy lòng tự trọng
trong mỗi cá nhân học sinh để các em tự hoàn thiện bản thân, khuyến khích kỉ luật
tự giác và ý thức tự giáo dục.
- GVCN cần phải nắm vững quy chế, điều lệ nhà trường, mục tiêu giáo dục
của trường phổ thông, của cấp học, lớp học mình phụ trách, nắm vững kế hoạch,
chương trình hoạt động của nhà trường, của địa phương để xây dựng kế hoạch tổ
chức các hoạt động giáo dục cho tập thể lớp mình phụ trách.
- Có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục, đó là khả năng xây dựng kế
hoạch hoạt động giáo dục như hoạt động giáo dục ngoài giờ, sinh hoạt tập thể, văn
hóa văn nghệ, tham quan du lịch. . . và tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động
đó với sự hợp tác tham gia tích cực của tất cả học sinh. Thông qua các hoạt động
để tiến hành giáo dục toàn diện cho học sinh (đức, trí, thể mỹ. . . ), người GVCN lớp
phải có khả năng tập hợp tất cả học sinh tham gia vào các hoạt động tập thể, biết
tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm sau khi tổ chức một hoạt động giáo dục.
- Có kĩ năng giải quyết các tình huống sư phạm diễn ra trong thực tiễn giáo
dục. Người GVCN phải nhận dạng được các tình huống, từ đó thu thập và xử lí các
thông tin có liên quan để giải quyết vấn đề một cách chính xác. Để giải quyết tình
134
Những năng lực cần có của người giáo viên chủ nhiệm lớp trong thời đại ngày nay
huống sư phạm, người GVCN phải có khả năng dự kiến các phương án có thể và
lựa chọn phương án tối ưu trên cơ sở biết vận dụng những tri thức tâm lí học, giáo
dục học trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
GVCN lớp phải có khả năng phối hợp các lực lượng giáo dục tham gia giải
quyết các tình huống sư phạm trên cơ sở khích lệ ý thức tự giác của học sinh, linh
hoạt xử lí các vấn đề nảy sinh trong quá trình giải quyết. Biết tổ chức rút kinh
nghiệm về các quyết định đã lựa chọn và quá trình thực hiện giải quyết vấn đề.
- Có kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt, những học sinh có hành vi tiêu cực.
GVCN phải có khả năng tiếp cận cá nhân dựa trên đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm
riêng của học sinh. Từ đó xác định nguyên nhân các hành vi tiêu cực để có biện
pháp giáo dục phù hợp. GVCN phải có khả năng cảm hóa giúp học sinh thay đổi
những suy nghĩ, niềm tin sai lệch, dẫn đến hành vi tiêu cực, biết cách khơi dậy lòng
tự trọng của học sinh để các em cố gắng tự tu dưỡng hoàn thiện bản thân, biết kết
hợp với dư luận tập thể lành mạnh để điều chỉnh những hành vi tiêu cực của học
sinh trong lớp, có khả năng làm học sinh trong lớp ứng xử thân thiện và tôn trọng
lẫn nhau, nhất là đối với những học sinh cá biệt. GVCN phải có kĩ năng phối hợp
với các giáo viên bộ môn, gia đình học sinh, các lực lượng xã hội để giúp đỡ học sinh
thay đổi thái độ và hành vi sao cho phù hợp với chuẩn mực xã hội. Có khả năng
tiên lượng và đánh giá hiệu quả của các tác động giáo dục đối với học sinh [5].
- Có kĩ năng đánh giá kết quả rèn luyện, tu dưỡng của học sinh. Trên cơ sở
thu thập thông tin, bằng chứng từ các nguồn khác nhau như bản thân học sinh, tập
thể học sinh, giáo viên bộ môn, cha mẹ học sinh, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên
và các lực lượng giáo dục có liên quan để tổ chức đánh giá toàn diện kết quả giáo
dục của từng học sinh, của tổ và lớp học sinh mình chủ nhiệm. Biết cách thông báo
kết quả đánh giá cho học sinh, cha mẹ học sinh, cho nhà trường và những người có
trách nhiệm khác. Ví dụ, trong buổi họp cha mẹ học sinh mà giáo viên thông báo
cụ thể những học sinh có kết quả đánh giá không tốt là vô tình xúc phạm đến cha
mẹ những học sinh này trước người khác. Cách làm đúng là đưa thông báo riêng
hoặc gặp riêng cha mẹ học sinh để trao đổi. . . [4].
GVCN phải biết cách sử dụng các kết quả đánh giá để hướng dẫn học sinh
tự điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi của mình, bản thân giáo viên cần điều
chỉnh nội dung, phương pháp giáo dục học sinh, điều chỉnh cách phối hợp với các
lực lượng giáo dục. Ngoài ra, GVCN cần biết cách lưu giữ các kết quả đánh giá để
lập hồ sơ theo dõi từng cá nhân và tập thể học sinh.
- GVCN phải có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí học sinh.
Cụ thể là họ phải biết cách sử dụng một số phần mềm tin học thông dụng để quản
lí hồ sơ, lí lịch học sinh, quản lí điểm và quá trình học tập, tu dưỡng của học sinh.
Nhất là có thể sử dụng tin học để tính điểm trung bình, xếp loại, xét kết quả học
tập, theo dõi chuyên cần. . . Hơn nữa, giáo viên cũng cần biết cách tìm kiếm thông
tin trên mạng để nâng cao năng lực giáo dục, năng lực quản lí và giảng dạy của bản
135
Phan Thanh Long
thân [4].
- Năng lực phối hợp các lực lượng trong công tác giáo dục học sinh. Đó là khả
năng lập kế hoạch phối hợp giáo dục với cha mẹ học sinh, với tổ chức Đoàn, Đội,
Hội học sinh, giáo viên bộ môn, các lực lượng trong và ngoài nhà trường để tạo ra
một môi trường giáo dục thống nhất, lành mạnh. Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch
phối hợp các lực lượng trong giáo dục học sinh. Biết cách tổ chức đánh giá, rút kinh
nghiệm trong việc thực hiện kế hoạch phối hợp giáo dục. Các hoạt động phối hợp
như: tổ chức họp hội cha mẹ học sinh, phối hợp với tổ chức Đoàn, Đội, hội học sinh
để tổ chức các hoạt động phong trào, tổ chức đánh giá học sinh. . . [3].
Muốn vậy, GVCN phải hiểu biết được đặc thù và chức năng của từng môi
trường và lực lượng giáo dục. Cụ thể, họ phải nhận thức được vị trí, vai trò của gia
đình, bạn bè, thầy cô giáo, cộng đồng địa phương, các tổ chức xã hội, cơ quan cha
mẹ học sinh công tác, các tổ chức học sinh, các phương tiện thông tin đại chúng. . .
Biết cách thu thập thông tin và phân tích ảnh hưởng của các môi trường, các lực
lượng đến sự phát triển của học sinh.
- Xây dựng và quản lí hồ sơ chủ nhiệm lớp để theo dõi sự phát triển của cá
nhân và tập thể lớp. Nắm được đặc điểm, chức năng, yêu cầu của từng loại hồ sơ
quản lí học sinh, biết cách cập nhật và quản lí các thông tin này.
- Xây dựng tập thể học sinh vững mạnh. Đó là khả năng xây dựng bộ máy
tự quản gương mẫu, xây dựng dư luận tập thể lành mạnh, xây dựng viễn cảnh tập
thể. Biết thiết lập và duy trì không khí tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau trong lớp. Biết
khuyến khích học sinh nâng cao trách nhiệm với bản thân và tập thể, tinh thần tự
giác và chịu trách nhiệm lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. . . Biết phát huy sức
mạnh của từng cá nhân học sinh để xây dựng tập thể.
- GVCN phải có năng lực giao tiếp với các đối tượng một cách phù hợp như
có thái độ khiêm tốn, lịch sự, tôn trọng đối tượng, biết lắng nghe, đồng cảm và chia
sẻ, biết cách phản đối những ý kiến không phù hợp, có khả năng thuyết phục đối
phương. . . Đối với học sinh phải cởi mở, thân thiện, tạo được bầu không khí giao
tiếp thoải mái, tin tưởng. Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp giản dị, dễ hiểu, trong
sáng, súc tích, phát âm chuẩn, âm lượng, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, tư thế, tác phong
phù hợp. Biết cách khơi gợi cho học sinh bày tỏ tâm tư của mình, làm cho học sinh
tự tin trong giao tiếp. . .
Ngoài ra, người GVCN lớp ở bậc phổ thông cũng cần có các năng lực của một
người giáo viên nói chung theo chuẩn nghề nghiệp được Bộ Giáo dục - Đào tạo ban
hành theo Thông tư số 30/2009/TT ngày 22/10/2009. Đó là các năng lực dạy học,
hoạt động chính trị - xã hội, năng lực phát triển nghề nghiệp. . .
3. Kết luận
Trên đây là một số năng lực cơ bản dựa trên chuẩn nghề nghiệp và nhiệm vụ
của người GVCN lớp. Những năng lực này có những đặc điểm hoàn toàn mới đặc
136
Những năng lực cần có của người giáo viên chủ nhiệm lớp trong thời đại ngày nay
trưng cho thời đại, một số tuy vẫn gọi tên như cũ nhưng thay đổi và bổ sung về
nội dung cho phù hợp hơn. Năng lực của người GVCN không chỉ được hình thành
trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm mà quan trọng hơn là được tôi luyện
trong thực tiễn giáo dục. Những giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp, có tinh thần
trách nhiệm mới có thể tự học tập, nghiên cứu để phát triển năng lực nghề nghiệp
của mình trong đó có năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bôn-đư-rev N.I., 1984. Những phương pháp công tác chủ nhiệm lớp. Nxb Giáo
dục Matxcơva.
[2] Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, trung học phổ thông (Ban hành
theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ GD-ĐT).
[3] Lê Văn Hồng, 1998. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm. Nxb Giáo dục.
[4] Phan Thanh Long, 2006. Lí luận giáo dục. Nxb Đại học Sư phạm.
[5] Hà Nhật Thăng, 2004. Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông.
Nxb Giáo dục.
ABSTRACT
The capacity of homeroom teachers needed for future development
Due to the development of society, especially the formation of Information
Society and economy of knowledge has changed the basic characteristics of cultural
education which has been formed over many centuries. This change forces the Home-
room Teachers to have to form the new capacity to meet the practical requirements
and demands of professional standards.
Some of these capabilities are entirely new and are typical of specific time
periods; they have what is called “the same but change” and add content to fit better.
The capacity of the homeroom teachers are not only formed during the training
in university but also more importantly that they are in educational practice. The
teachers, who are devoted to their profession, have a sense of responsibility, therefore
can self-study and research to develop their professional capabilities including the
ability to accomplish the objective for the lesson.
137