Sự gia tăng liên tục của khối lượng tri thức nhân loại do tốc độ phát triển như
vũ bão của khoa học - công nghệ đã làm cho dạy học truyền thống theo hướng
tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Xu thế thiết kế chương trình dạy học theo
hướng mới, tiếp cận năng lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng trong
giai đoạn hiện nay. Cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người
học biết và có thể làm được những gì?
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhận thức cơ bản về dạy học theo định hướng phát triển năng lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
18
1. Mở đầu
Dạy học truyền thống được quan niệm
là dạy học “định hướng nội dung” hay dạy học
“định hướng đầu vào” (điều khiển đầu vào). Đặc
điểm cơ bản (cũng được xem là ưu điểm) của
nó là chú trọng việc trang bị cho người học hệ
thống tri thức khoa học khách quan về nhiều
lĩnh vực khác nhau đã được quy định trong
chương trình dạy học.
Tuy nhiên, dạy học định hướng nội dung
không còn thích hợp do những nguyên nhân
sau:
Một là, ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc
hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc
những nội dung chi tiết trong chương trình
dạy học dẫn đến tình trạng nội dung chương
trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức
hiện đại. Vì thế, việc rèn luyện phương pháp
học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn
trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng
học tập suốt đời.
Hai là, dạy học định hướng nội dung dẫn
đến xu hướng việc kiểm tra, đánh giá chủ yếu
dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức
mà không định hướng vào khả năng vận dụng
tri thức trong những tình huống thực tiễn.
Ba là, do phương pháp dạy học (PPDH)
mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng
ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con
người mang tính thụ động, hạn chế khả năng
sáng tạo và năng động. Do đó, chương trình
giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của xã hội và thị trường lao động đối
với người lao động về năng lực hành động, khả
năng sáng tạo và tính năng động.
Để khắc phục nhược điểm của chương
trình định hướng nội dung, từ những năm 90
của thế kỷ XX đã có nhiều nghiên cứu mới về
chương trình dạy học. Theo đó, chương trình
dạy học định hướng kết quả đầu ra (Outcomes
Based Curriculum - OBC) hay nói rộng hơn là
giáo dục định hướng kết quả đầu ra (Outcome
Based Education - OBE), còn gọi là giáo dục định
hướng năng lực (định hướng phát triển năng
lực) ra đời và ngày càng nhận được sự quan
tâm của nhiều quốc gia, trở thành xu hướng
giáo dục quốc tế.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm
bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực
hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm
chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng
tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm
chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các
tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Những nhận thức cơ bản về dạy học theo
định hướng phát triển năng lực
ThS. NGUYỄN VĂN HIỀN 1
ThS. NGUYỄN THỊ BÌNH2
Sự gia tăng liên tục của khối lượng tri thức nhân loại do tốc độ phát triển như
vũ bão của khoa học - công nghệ đã làm cho dạy học truyền thống theo hướng
tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Xu thế thiết kế chương trình dạy học theo
hướng mới, tiếp cận năng lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng trong
giai đoạn hiện nay. Cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người
học biết và có thể làm được những gì?
(1) Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai
(2) Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Chương trình dạy học định hướng năng lực
không quy định những nội dung dạy học chi
tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong
muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa
ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn
nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá
kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được
mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra
mong muốn. Theo đó, mục tiêu học tập, tức là
kết quả học tập mong muốn thường được mô
tả thông qua hệ thống các năng lực, được mô
tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được học
sinh cần đạt được những năng lực yêu cầu đã
quy định trong chương trình.
2. Năng lực và cấu trúc của năng lực
Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả
năng thực hiện của cá nhân đối với một công
việc. Ngày nay, khái niệm năng lực được hiểu
nhiều nghĩa khác nhau, nhưng cách hiểu phổ
biến được diễn tả: Năng lực là một thuộc tính
tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố
như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn
sàng hành động và trách nhiệm.
Trong chương trình dạy học định hướng
phát triển năng lực, mục tiêu dạy học của
chương trình được mô tả thông qua các nhóm
năng lực. Các năng lực còn là những đòi hỏi của
các công việc, các nhiệm vụ, và các vai trò vị trí
công việc. Vì vậy, các năng lực được xem như là
những phẩm chất tiềm tàng của một cá nhân
và những đòi hỏi của công việc.
Theo quan điểm trong chương trình dạy
học hiện nay của các nước thuộc OECD (Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization
for Economic Cooperation and Development),
năng lực được phân chia thành hai nhóm chính,
đó là các năng lực chung và các năng lực chuyên
môn (năng lực chuyên biệt).
Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết
yếu để con người có thể sống và làm việc bình
thường trong xã hội. Năng lực này được hình
thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan
đến nhiều môn học. Đây là loại năng lực được
hình thành xuyên chương trình.
Mỗi năng lực chung góp phần tạo nên kết
quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng, giúp
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
18cho các cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi
của một bối cảnh xã hội rộng lớn và phức tạp.
Dạng năng lực chung này có thể không quan
trọng với các chuyên gia, nhưng rất quan trọng
với tất cả mọi người.
Nhóm năng lực chung bao gồm:
• Khả năng hành động độc lập thành công;
• Khả năng sử dụng các công cụ giao tiếp
và công cụ tri thức một cách tự chủ;
• Khả năng hành động thành công trong
các nhóm xã hội không đồng nhất.
Thống kê cho thấy có 8 năng lực sau đây
được sử dụng và nhấn mạnh ở hầu hết hệ thống
giáo dục tại các nước tiên tiến:
- Tư duy phê phán, tư duy logic;
- Giao tiếp, làm chủ ngôn ngữ;
- Tính toán, ứng dụng số;
- Đọc - viết;
- Làm việc nhóm - quan hệ với người khác;
- CNTT - truyền thông (ICT);
- Sáng tạo, tự chủ;
- Giải quyết vấn đề.
Năng lực chuyên biệt liên quan đến từng
môn học riêng biệt, là năng lực được hình thành
và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo
định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các
loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống,
môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt
động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn
của một hoạt động như Toán học, Âm nhạc, Mĩ
thuật, Thể thao,
Ví dụ, nhóm năng lực chuyên môn Toán
bao gồm:
• Giải quyết các vấn đề toán học;
• Lập luận toán học;
• Mô hình hóa toán học;
• Giao tiếp toán học;
• Tranh luận về các nội dung toán học;
• Vận dụng các cách trình bày toán học;
• Sử dụng các ký hiệu, công thức, các yếu
tố thuật toán.
3. Các đặc trưng cơ bản của dạy học phát
triển năng lực
Thứ nhất, dạy học thông qua tổ chức liên
tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh
tự khám phá những điều chưa biết chứ không
phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp
đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên là người tổ
chức và hướng dẫn học sinh tiến hành các hoạt
động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện
kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã
biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống
thực tiễn,... Được đặt vào những tình huống của
đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát,
thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt
ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được
kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương
pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập
theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và
phát huy tiềm năng sáng tạo.
Thứ hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh
những tri thức phương pháp (quan trọng là
phương pháp tự học) để học sinh biết cách đọc
sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách
tự tìm lại những kiến thức đã có, biết cách suy
luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các
tri thức phương pháp thường là những quy tắc,
quy trình, phương thức hành động, tuy nhiên
cũng cần coi trọng cả các phương pháp có tính
chất dự đoán, giả định (ví dụ: các bước cân bằng
phương trình phản ứng hóa học, phương pháp
giải bài tập toán học,...). Cần rèn luyện cho học
sinh các thao tác tư duy như phân tích, tổng
hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy
lạ về quen để dần hình thành và phát triển
tiềm năng sáng tạo của học sinh. Việc rèn luyện
phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là
một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà
còn là một mục tiêu dạy học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là
phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý
chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi
dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả
học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN8
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học
trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển
biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động,
không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học
cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
Thứ ba, tăng cường phối hợp học tập cá nhân
với học tập hợp tác theo phương châm “tạo điều
kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn
và thảo luận nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi
học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc lập,
vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình
tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp
học trở thành môi trường giao tiếp thầy - trò
và trò - trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh
nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải
quyết các nhiệm vụ học tập chung.
Trong học tập, không phải mọi tri thức,
kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng
những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là
môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên
mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua
thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá
nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua
đó người học nâng mình lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp học tập
hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc
trường. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học
tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay
cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa
các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Mô
hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học
đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với
sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu
cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng
lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo
dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
Thứ tư, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh
giá của trò, chú trọng đánh giá kết quả học tập
theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy
học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh
giá lớp học). Chú trọng phát triển kỹ năng tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với
nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu,
theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để
có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu
cách sửa chữa các sai sót.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá
học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên
phải tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được
tham gia đánh giá lẫn nhau, hướng dẫn học sinh
phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh
cách học. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt
động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành
đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang
bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp
tích cực để đào tạo những con người năng động,
sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm
tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái
hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà
phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo
trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Tuy nhiên, đổi mới để đạ t được PPDH tích
cực luôn cần kết hợp với phương pháp học của
học sinh. Cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng
tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động. Mọi nỗ lực đổi mới của
giáo viên sẽ thất bại nếu không hình thành và
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Tính tích cực học tập - về thực chất là tính
tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu
biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức
trong hoạt động học tập liên quan trước hết với
động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú.
Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự
giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích
cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập
là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong
cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát
triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học
tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu
hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo
viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát
biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay
nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
18vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức,
kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập
trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn
thành các bài tập, không nản trước những tình
huống khó khăn,
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp
độ từ thấp lên cao như:
Bắt chước: cố gắng làm theo mẫu hành
động của thầy, của bạn,
Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra,
tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số
vấn đề,
Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc
đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, từ dạy và học thụ động sang dạy
và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai
trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức,
mà trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn
các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để
học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ
động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái
độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học
sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn
nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo
viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều
so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực
hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc
tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt
động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của
học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn
sâu rộng, có năng lực sư phạm lành nghề mới
có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của
học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự
kiến của giáo viên.
4. Kết luận
Hệ lụy của giáo dục theo hướng tiếp cận
nội dung là người học không phát huy được
tính sáng tạo do chỉ làm theo hướng dẫn của
thầy, thiếu khả năng suy nghĩ độc lập và giải
quyết các vấn đề thực tiễn, không có khả năng
tự học và thói quen tự tìm tri thức để học, thiếu
kỹ năng làm việc nhóm do học một cách thụ
động. Ngược lại, dạy học theo hướng tiếp cận
năng lực người học là một xu thế tất yếu. Nó
giúp người học có khả năng giải quyết các vấn
đề thực tiễn ngay khi rời ghế nhà trường. Nói
cách khác, đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội.
Ngoài ra, với tiếp cận năng lực, người học sẽ
được trang bị kỹ năng để có thể học cả đời. Đây
là điều bắt buộc trong bối cảnh khối lượng tri
thức tăng lên nhanh chóng như hiện nay.
Đổi mới giáo dục là tất yếu dù biết rằng mọi
sự đổi mới đều phải đối diện với thách thức từ
cái cũ, sức ì của tư duy cũ. Tuy nhiên, đổi mới
sang dạy học theo định hướng phát triển năng
lực không có nghĩa là đoạn tuyệt hoàn toàn
với cái cũ, chỉ sử dụng các phương pháp dạy
học hiện đại, loại bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu từ việc
cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược
điểm của chúng, phát huy tính tích cực, sáng tạo
của học sinh. Nền tảng của mọi năng lực luôn
xuất phát trên cơ sở của những hiểu biết, những
kiến thức chuyên môn nhất định. Nói cách khác,
nếu bị những lỗ hổng về nội dung kiến thức lý
thuyết (cả kiến thức về phương pháp) thì khó
có thể hình thành những kỹ năng thực hành
thuần thục, những năng lực bền vững. Với giáo
viên dạy học theo định hướng phát triển năng
lực, cho dù lựa chọn PPDH nào thì vẫn phải tạo
điều kiện cho người học được khám phá, chủ
động, sáng tạo trong việc tìm kiếm kiến thức,
giải quyết các vấn đề, gắn kiến thức với thực
tiễn, Thay cho học thiên về lí thuyết, học sinh
cần được trải nghiệm sáng tạo, khám phá kiến
thức qua hành động, học qua “làm”, chỉ có như
vậy kiến thức học mới được khắc sâu, năng lực
chung lẫn riêng mới được hình thành và phát
triển bền vững./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục
phổ thông - Những vấn đề chung, Nxb Giáo dục.
2. Nguyễn Hữu Châu (2005), Những vấn đề cơ bản về
chương trình và quá trình dạy học, Nxb Giáo dục.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội nghị
BCH TW Đảng lần thứ 8 (Khóa XI).
4. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy
học trong nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm.