Những phong tục cưới xin lạ lùng của Việt Nam

Mỗi năm, bắt đầu từ mùng một Tết âm lịch cho đến hết tháng ba, lễ hội bắt chồng lại được tổ chức ở các vùng dân tộc này. Theo quy định, lễ hội bắt chồng được diễn ra vào ban đêm và các cô gái sẽ là người chủ động trong việc tìm chồng. Khi tìm được một chàng trai họ ưng ý thì cô gái này sẽ thông báo với gia đình và nếu nhận được sự đồng ý của 2 họ cô gái này sẽ mang nhẫn tới đeo cho chàng trai theo 1 ngày đã định. Nếu không đồng ý người con trai này có thể trả lại nhẫn.

pdf11 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những phong tục cưới xin lạ lùng của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những phong tục cưới xin lạ lùng của Việt Nam Mỗi một dân tộc, vùng miền trên đất nước ta đều sở hữu những phong tục đặc biệt mang bản sắc riêng. 1. Lễ hội bắt chồng kỳ lạ ở Tây Nguyên Một lễ hội bắt chồng Tây Nguyên. Bắt chồng không còn là một tục lạ quá xa lạ với nhiều người bởi tục lệ này khá nổi tiếng với các đồng bào Chu ru, Cil, Cơ ho.. ở Tây Nguyên. Mỗi năm, bắt đầu từ mùng một Tết âm lịch cho đến hết tháng ba, lễ hội bắt chồng lại được tổ chức ở các vùng dân tộc này. Theo quy định, lễ hội bắt chồng được diễn ra vào ban đêm và các cô gái sẽ là người chủ động trong việc tìm chồng. Khi tìm được một chàng trai họ ưng ý thì cô gái này sẽ thông báo với gia đình và nếu nhận được sự đồng ý của 2 họ cô gái này sẽ mang nhẫn tới đeo cho chàng trai theo 1 ngày đã định. Nếu không đồng ý người con trai này có thể trả lại nhẫn. Tuy nhiên, sau 7 ngày tiếp theo cô gái này lại tiếp tục đến và đeo nhẫn cho chàng trai. Sự việc cứ thế tiếp diễn đến khi nào chàng trai đồng ý. Sau khi người con trai đồng ý thì đám cưới sẽ được tổ chức. Trước khi cưới một ngày, buôn làng tổ chức một đêm hội gọi là "Đêm hội bắt chồng". Trong đêm hội này, chàng trai và cô gái phải đọc một số câu luật tục riêng của đồng bào mình, có một số câu luật độc đáo như: "Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha; ăn ruộng, ăn rẫy phải hỏi tai con trâu, con bò; làm bẫy phải hỏi thần núi; về với vợ như về với nước...". Đến ngày cưới cả 2 đều đeo lại nhẫn và sau 7 ngày cô gái tháo nhẫn để gửi mẹ chồng còn chàng trai tháo nhẫn gửi lại mẹ vợ. 2. Kéo vợ của người Dao đỏ Trong quan niệm của người Dao đỏ, giai đoạn mùa xuân là thời kỳ đẹp nhất trong năm, trăm hoa đua nở. Điều này cũng đồng nghĩa với việc những đôi lứa se duyên chồng vợ, Được biết, phong tục Kéo vợ của người Dao đỏ xuất phát từ việc những người của dân tộc này muốn "lách luật" thách cưới vốn trở thành rào cản hạnh phúc cho những chàng trai nghèo. "Kéo vợ" không phải cứ thấy cô nào xinh xắn, giỏi giang, muốn lấy làm vợ thì kéo về nhà mình, mà thực tế đôi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất cặn kẽ và đã ưng nhau. Cho nên kéo vợ chỉ là cái tục phải có để người con gái chính thức bước chân về nhà chồng. Sau khi kéo cô gái về nhà, ba ngày sau chàng trai chỉ việc sang nhà gái thông báo họ đã thành vợ chồng. Cho đến khi con đàn, cháu đống, của cải dư thừa họ mới tổ chức đám cưới. Chính vì thế, có những đôi đến 70 tuổi mới làm đám cưới. 3.Vỗ mông kén vợ Sau khi bị vỗ mông, các cô gái sẽ chính thức trở thành vợ. Theo phong tục của người Mông, Hà Giang thì giai đoạn phiên chợ cuối năm là dịp tốt nhất để trai gái tìm thấy nhau,Ngoài tập tục chặn đường cướp cô dâu nổi tiếng, ở đây còn có tập tục vỗ mông để chọn bạn đời. Sáng đầu năm, nam thanh nữ tú nhất loại về tụ tập ở khoảng sân diễn tục chơi "ú tim". Sau những chén rượu chúc tụng cho một nǎm mới tốt lành, họ đưa mắt tìm bạn đời. Nếu ưng thuận nhau cô gái sẽ bỏ chạy và nhiệm vụ của chàng trai là đuổi theo. Điều kiện là cả 2 người đều phải chạy hết sức mình, Nếu chàng trai đuổi kịp cô gái và đưa bàn tay vỗ vào mông cô một cái thì đồng nghĩa với cô gái này sắp sửa sẽ trở thành vợ. 4. Tục cưới hai lần của người Pakô Ngày này tục cưới 2 lần đã được tối giản đi rất nhiều. Dân tộc Pacô trú tại miền núi tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên có dân tộc Pacô, xưa kia có tục cưới hai lần. Quy định được xem là trưởng thành bắt buộc trai gái đều phải cà 6 chiếc răng cửa. Sau khi trai gái tìm hiểu nhau được cha mẹ đồng ý thì lễ cưới được tiến hành. Lễ cưới lần thứ nhất, nhà trai đi các lễ vật quý như trâu bò, chóe, nếp rượu, nồi đồng... Khi về nhà chồng, thì đôi vợ chồng trẻ phải tổ chức lễ "đạp bếp", đưa nhau trở lại nhà gái, trình diện gia đình. Cũng từ đó, cô gái chính thức đoạn tuyệt hẳn với nhà cha mẹ đẻ, và gia nhập họ nhà trai. Thời gian sau ngày cưới, đôi vợ chồng lo làm lụng, vừa để trả nợ "thách cưới", vừa lo chạy vạy để làm lễ Pẩy Ploh (nghĩa là kết thúc trọn vẹn) hay còn gọi là lễ "mua cái đầu". 5. Sau 5 lần "ngủ thử" mới được cưới Sau khi ngủ thăm 5 lần, nhiều chàng trai cô gái nên duyên chồng vợ. Trong kho phong tục lâu đời của người Mường có phong tục "ngủ thăm". Tục lệ này cho phép những chàng trai đến tuổi trưởng thành được phép tới "ngủ thăm" nhà một cô gái mà họ ưng. Các cô gái đến tuổi trưởng thành, ban ngày đi làm việc, tối đến đốt một ngọn đèn, buông màn sớm và nằm trong đó. Các chàng trai có nhu cầu tìm hiểu người con gái mình sẽ lấy làm vợ, có thể tìm đến để "ngủ thăm". Nếu đèn trong buồng cô gái còn sáng, nghĩa là chưa có ai đến ngủ thăm, chàng trai phải tự cạy cửa để vào nhà. Sau 5 lần ngủ thăm mà thấy ưng nhau, chàng trai sẽ cùng gia đình tới nhà gái để xin đám cưới. Theo quy định sau khi vào được nhà chàng trai nằm xuống bên cạnh cô gái, cô gái sẽ tắt hoặc vặn nhỏ ngọn đèn. Hai người chỉ trò chuyện, tâm sự mà không chạm vào người nhau. Phong tục này có từ lâu đời và nay vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên, tại một số nơi đã bị bỏ do có những hệ lụy trái chiều.