Những quan niệm về sự bất tử của con người

Ngay từ thời cổ đại, Kinh Upanishad ở Ấn Độ đã lý giải vấn đề này như sau: Brahman (linh hồn vũ trụ) được coi là thần thánh sáng tạo tất cả. Atman (linh hồn của mỗi con người, mỗi cá thể súc vật, cây cỏ, v.v.) là một bộ phận của linh hồn vũ trụ, nên về nguyên tắc nó cũng bất tử như linh hồn vũ trụ. Khi cơ thể sinh vật chết đi, atman sẽ tách khỏi cơ thể và đầu thai sang một cơ thể khác mới sinh ra, tiếp tục cuộc sống ở một kiếp khác. Kiếp sau có thể là người, là súc vật hay cây cỏ. Linh hồn cứ đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác trong một cái vòng tròn lẩn quẩn như vậy gọi là sự luân hồi (samsara: bánh xe quay tròn). Con người chịu hậu quả của hành vi của chính mình gọi là “nghiệp” (karma: hành động). Chính cái nghiệp của kiếp này quy định cuộc sống ở kiếp sau. Để giải thoát cho con người khỏi cái vòng luân hồi, nghiệp báo, con người phải dốc lòng tu luyện, từ bỏ ham muốn dục vọng để linh hồn thoát khỏi sự ràng buộc của có thể và trở về với linh hồn vũ trụ tối cao, đạt đến hạnh phúc và sự bất tử vĩnh hằng. Phật giáo ra đời trong phong trào đấu tranh chống đạo Bàlamôn, chống lại sự phân biệt đẳng cấp, đòi bình đẳng xã hội, nên không thể không bác bỏ những luận điểm cơ bản của Kinh Vêda và Kinh Upanishad (những bộ kinh này là cơ sở giáo lý của Đạo Bàlamôn, tiền thân của Ấn giáo ngày nay). Đạo Phật không thừa nhận linh hồn vũ trụ Brahman và linh hồn cá thể bất tử atmam. Theo Đạo Phật, cơ thể của chúng sinh được cấu tạo từ những yếu tố vật chất và tinh thần gọi là ngũ uẩn gồm sắc (các yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió) và danh (gồm các yếu tố tinh thần là thụ, tưởng, hành, thức). Khi chết, những yếu tố này phân hủy, nên không còn cái atman bất tử. Tuy nhiên, Đạo Phật lại thừa nhận sự tái sinh ở kiếp sau và tiếp thu một số yếu tố của Đạo Bàlamôn, như sự luân hồi, nghiệp báo, sự tu luyện để đạt đến sự giải thoát ở cõi vĩnh hằng. Dù sao Đạo Phật cuối cùng cũng cho rằng khi con người tu luyện đắc đạo sẽ đạt tới sự giác ngộ và thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo, lúc đó linh hồn cá thể sẽ hòa nhập vào cõi Niết bàn và trở thành bất tử, vĩnh cữu. Niết bàn là cái gì, cho đến nay cũng chưa ai biết được, có chăng cũng chỉ là sự tranh cãi về lý thuyết mà thôi.

doc7 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2130 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những quan niệm về sự bất tử của con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG QUAN NIỆM VỀ SỰ BẤT TỬ CỦA CON NGƯỜI PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng (Đăng trong Tạp chí Tâm lý học số 10 10-2002, đã chỉnh sửa lại) Mong ước về sự bất tử của cá nhân mình là một hiện tượng tâm lý chung của nhân loại. Bất kỳ người nào, dù là duy tâm hay duy vật, hữu thần hay vô thần ít nhiều đều trăn trở, đều suy tư về vấn đề này. Đi tìm câu trả lời cho nó không chỉ có tôn giáo, triết học mà có cả những nhà khoa học có đầu óc vĩ đại nhất. Tùy theo cách trả lời cho vấn đề này mà mỗi người có những cách sống và hoạt động nhất định để đạt đến sự bất tử cho mình. Cơ thể con người không bất tử; nhiều tôn giáo và chủ nghĩa duy vật đều khẳng định như vậy; vì đó là một thực tế không ai chối cải được. Trước đây đã từng có nhiều người trong đó có những vị hoàng đế (như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế …) đã uổng công vô ích trong việc tìm kiếm một loại thuốc trường sinh bất tử cho cơ thể của mình. Ngày nay, nếu có ai nói đến một phương thuốc như vậy thì chắc chắn sẽ bị coi là một kẻ lừa đảo hoặc là một người đầu óc có vấn đề cần phải đưa vào nhà thương điên. Vậy vấn đề còn lại được đặt ra là: ý thức, tinh thần con người có bất tử hay không? đó là một câu hỏi muôn thuở. Ở đây có những cách giải đáp khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Ngay từ thời cổ đại, Kinh Upanishad ở Ấn Độ đã lý giải vấn đề này như sau: Brahman (linh hồn vũ trụ) được coi là thần thánh sáng tạo tất cả. Atman (linh hồn của mỗi con người, mỗi cá thể súc vật, cây cỏ, v.v.) là một bộ phận của linh hồn vũ trụ, nên về nguyên tắc nó cũng bất tử như linh hồn vũ trụ. Khi cơ thể sinh vật chết đi, atman sẽ tách khỏi cơ thể và đầu thai sang một cơ thể khác mới sinh ra, tiếp tục cuộc sống ở một kiếp khác. Kiếp sau có thể là người, là súc vật hay cây cỏ. Linh hồn cứ đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác trong một cái vòng tròn lẩn quẩn như vậy gọi là sự luân hồi (samsara: bánh xe quay tròn). Con người chịu hậu quả của hành vi của chính mình gọi là “nghiệp” (karma: hành động). Chính cái nghiệp của kiếp này quy định cuộc sống ở kiếp sau. Để giải thoát cho con người khỏi cái vòng luân hồi, nghiệp báo, con người phải dốc lòng tu luyện, từ bỏ ham muốn dục vọng để linh hồn thoát khỏi sự ràng buộc của có thể và trở về với linh hồn vũ trụ tối cao, đạt đến hạnh phúc và sự bất tử vĩnh hằng. Phật giáo ra đời trong phong trào đấu tranh chống đạo Bàlamôn, chống lại sự phân biệt đẳng cấp, đòi bình đẳng xã hội, nên không thể không bác bỏ những luận điểm cơ bản của Kinh Vêda và Kinh Upanishad (những bộ kinh này là cơ sở giáo lý của Đạo Bàlamôn, tiền thân của Ấn giáo ngày nay). Đạo Phật không thừa nhận linh hồn vũ trụ Brahman và linh hồn cá thể bất tử atmam. Theo Đạo Phật, cơ thể của chúng sinh được cấu tạo từ những yếu tố vật chất và tinh thần gọi là ngũ uẩn gồm sắc (các yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió) và danh (gồm các yếu tố tinh thần là thụ, tưởng, hành, thức). Khi chết, những yếu tố này phân hủy, nên không còn cái atman bất tử. Tuy nhiên, Đạo Phật lại thừa nhận sự tái sinh ở kiếp sau và tiếp thu một số yếu tố của Đạo Bàlamôn, như sự luân hồi, nghiệp báo, sự tu luyện để đạt đến sự giải thoát ở cõi vĩnh hằng. Dù sao Đạo Phật cuối cùng cũng cho rằng khi con người tu luyện đắc đạo sẽ đạt tới sự giác ngộ và thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo, lúc đó linh hồn cá thể sẽ hòa nhập vào cõi Niết bàn và trở thành bất tử, vĩnh cữu. Niết bàn là cái gì, cho đến nay cũng chưa ai biết được, có chăng cũng chỉ là sự tranh cãi về lý thuyết mà thôi. Các tôn giáo như Kitô giáo (còn gọi là Cơ đốc giáo, do phiên âm từ tiếng latin Christo: Chúa Kitô, Chúa Cơ đốc hay Chúa Giêxu, người sáng lập ra tôn giáo này) và Hồi giáo (Islam) đều tin vào sự bất tử của linh hồn con người. Theo Kitô giáo và Hồi giáo, khi chết cơ thể trở về đất bụi nhưng linh hồn vẫn tiếp tục tồn tại. Linh hồn của những người tốt thì được lên Thiên đường. Đến ngày cuối cùng, được gọi là Ngày tận thế (The End of the Wỏld) hay Ngày phán xử cuối cùng (The Day of Judgement), Thượng đế sẽ phán xét tất cả, cho những người trong lúc sinh thời đã có lòng tin ở Thượng đế và làm nhiều điều tốt lành sẽ được phục sinh, nghĩa là được sống lại với cả thể xác và linh hồn giống như sự phục sinh của Chúa Kitô trước đây, và được lên Thiên đường. Những người khác sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn. Những người theo Kitô giáo thật ra họ cũng không biết chắc có Thiên đường, địa ngục hay không. Nhà triết học Pháp Blaise Pascal (1623-1662) đã từng coi niềm tin vào Thượng đế như là một canh bạc, một sự cá cược, trong đó người tin chỉ có được chứ không có mất, còn người không tin chỉ có mất chứ không có được. Nếu bạn tin vào Thượng đế và Thượng đế thật sự tồn tại thì bạn sẽ được cả một Thiên đường hạnh phúc, còn nếu Thượng đế không tồn tại thì bạn chẳng mất gì cả. Còn ngược lại, nếu bạn không tin vào Thượng và điều không tin của bạn là đúng thì bạn chẳng được gì cả, còn nếu điều này không đúng (nghĩa là có Thượng đế nhưng bạn lại không tin) thì bạn sẽ bị trừng phạt và đưa xuống điạ ngục vĩnh viễn. Lập luận này của Pascal trước đây đã từng được coi là chân lý thì ngày nay đã bị những người vô thần phân tích và phê phán. Một là, theo sự tranh luận của Internet Infidels (tổ chức của những người vô thần trên internet) thì có vô số thượng đế được tôn thờ bởi mỗi tôn giáo và mỗi dân tộc khác nhau, biết tin vào vị thượng đế nào cho đúng. Cho nên nếu niềm tin của bạn mà không đúng, thì bạn cũng không được an toàn như Pascal khẳng định (1). Cũng vì niềm tin không đúng mà nhiều người thậm chí đã tự nguyện hoặc bị lừa bịp đánh mất cả cuộc đời của họ và còn làm hại cuộc đời của vô số người khác nữa. Niềm tin vào Thượng đế và sự mong mỏi được lên Thiên đường trong ngày thận thế của những tín đồ cuồng tín đã dẫn đến những điều buồn cười đã xảy ra, thậm chí còn là nguyên nhân của những thảm cảnh đau lòng. Theo Encarta 2001 của Microsoft, việc tin vào ngày tận thế cuối những năm của thiên niên kỷ vừa qua là nguyên nhân của những vụ tội phạm và tự sát lớn xảy ra ở nhiều nước (2). Theo Jan Garrett, một nhà Phiếm thần luận hiện đại, thì những người theo Kitô giáo đã rơi vào sai lầm của thuyết nhân hình (anthropomorphism), là thuyết đem gán những thuộc tính quen thuộc của con người cho những đối tượng bên ngoài chúng ta. Chẳng hạn, Kinh Cựu ước đem gán những thuộc tính của con người cho Thượng đế, như thích được tôn sùng, nịnh bợ (Nếu ngươi tôn thờ ta thì ta sẽ cho vào danh sách những người được ta tuyển chọn) và hay nổi giận (thí dụ, Chúa trời nổi giận tiêu diệt loài người bằng trận Đại hồng thủy) (3). Đối với những nhà khoa học, mặc dù họ rất mong muốn sự bất tử, nhưng lý trí khoa học không chứng minh được có sự bất tử theo quan điểm của các tôn giáo truyền thống. Carl Sagan (1934-1996), nhà thiên văn học nổi tiếng Mỹ đã từng là giáo sư thiên văn học ở Đại học Harvard và Đại học Cornell ở Ithaca, New York viết: “Nếu có bằng chứng tốt về cuộc sống ở kiếp sau được công bố, tôi sẽ là người sốt sắng trong việc xem xét vấn đề này; nhưng đó phải là những cứ liệu khoa học, không phải là chuyện huyền thoại ... Tôi nói, thà rằng sự thật cay nghiệt còn hơn sự tưởng tượng dùng để an ủi”... “Tôi cũng thích tin rằng sau khi tôi chết tôi sẽ sống lại, rằng một phần tư duy, tình cảm, ký ức của tôi sẽ tiếp tục tồn tại. Nhưng càng muốn tin vào điều đó, và mặc dù những truyền thống văn hóa lâu đời khắp thế giới khẳng định có kiếp sau, tôi càng không thấy có gì hơn rằng đó chỉ là điều suy nghĩ mong ước (a wishful thinking) mà thôi” (4) . Nhà bác học Albert Eintein (1879-1955) viết: “Tôi không thể hình dung một Thượng đế lại đi ban thưởng hay trừng phạt những sản vật của chính sự sáng tạo của mình”, “Tôi cũng không tin rằng một cá nhân có thể tồn tại sau cái chết của cơ thể, mặc dù những linh hồn yếu đuối ấp ủ những tư tưởng như vậy vì sự sợ hãi hay do tính duy ngã đến buồn cười” . Về sự bất tử, ông nói: “Sự bất tử ư ? Có hai loại. Loại thứ nhất nằm trong trí tương tượng của con người và do vậy chỉ là một ảo tưởng. Có một sự bất tử tương đối đó là sự duy trì ký ức về một cá nhân qua một số thế hệ. Tuy nhiên, chỉ có một sự bất tử thật sự duy nhất, ở phạm vi vũ trụ, đó là sự bất tử của chính vũ trụ. Không có một sự bất tử nào khác” (5) . Những nhà triết học duy vật dựa trên luận điểm về sự phụ thuộc của ý thức vào cơ thể vật chất để chứng minh rằng sự bất tử của linh hồn là vô lý. Denis Diderot (1713-1784), người sáng lập và chủ biên Bách khoa toàn thư Pháp, coi linh hồn là tổng thể các hiện tượng tâm lý gắn liền với cơ thể vật chất. “Không có có cơ thể con người thì nó (linh hồn) không là gì cả”. Theo ông quan niệm về thiên đường, địa ngục, v.v., cũng vô lý tựa như quan niệm cho rằng có thể nhìn mà không cần mắt, có thể nghe mà không cần tai, có thể suy nghĩ mà không cần cái đầu, có thể cảm giác mà không cần đến cơ quan cảm giác vậy (6) . Ngày nay, những nhà vô thần hiện đại đã dựa trên những thành tựu khoa học mới nhất về sự phụ thuộc của ý thức vào bộ não người để phủ nhận sự bất tử của linh hồn. Các nhà duy vật không còn dùng thuật ngữ linh hồn nữa mà thay vào đó bằng thuật ngữ tinh thần, ý thức. Trả lời câu hỏi của một độc giả: Quan điểm vô thần về kiếp sau như thế nào ? Cliff Walker, người sáng lập và chủ biên Tạp chí “Chủ nghĩa Vô thần thực chứng” (Positive Atheism) ở Mỹ, khẳng định: “Không một ai có thể chứng minh được những luận điệu về sự tồn tại của một cuộc sống ở kiếp sau là có thật. Không ai có thể phát hiện ra cái gọi là linh hồn và mô tả được sự tương tác của nó với cơ thể như thế nào. Descartes là người cuối cùng làm việc đó trong một nổ lực có chủ định, còn tất cả khoa học từ đó đến nay đã tránh xa khái niệm đó ... Kinh Phúc âm, kinh Côran, và tất cả những kinh khác nói cho chúng ta về cuộc sống ở kiếp sau, nhưng đồng thời cũng nói cho chúng ta về những chuyện trên trái đất. Khi chúng ta so sánh những điều đã nói trong Kinh Phúc âm về những sự việc mà chúng ta có thể kiểm tra được, chúng ta tìm ra rất nhiều những sai lầm và không thể tin được. Nếu nó đã có những sai lầm mà chúng ta có thể kiểm tra được, thì tại sao chúng ta phải tin vào những điều nó nói về những sự việc mà chúng ta không thể kiểm tra được. Tôi không trách những ai nghĩ rằng có một kiếp sau. Nhưng tôi thì không có lý do gì để tin rằng có chuyện cuộc sống ở kiếp sau” (7) . Bên cạnh những người vô thần, những người theo Phiếm thần luận (là trào lưu triết học tôn giáo cho rằng Thượng đế và tự nhiên là một) cũng không tin vào sự bất tử, vào kiếp sau. Cùng với những tổ chức vô thần, các tổ chức phiếm thần cũng tranh luận với tôn giáo một cách tích cực trên mạng internt. Paul Harrison viết: “Chúng ta không căm ghét cái chết. Cái chết là tất yếu đối với giới tự nhiên. Nếu không có cái chết thì cũng không có sự sống”. “Nếu không có sự chết thì nguy cơ nạn nhân mãn sẽ có nghĩa là không một ai trong chúng ta có thể được quyền sinh con đẻ cái... Tất nhiên, có một sự bất tử hiểu theo nghĩa là những thành phần vật chất của cơ thể chúng ta sẽ trở về với vòng tuần hoàn tự nhiên” ... và “được chế biến lại thành sự sống mới”. Cũng theo tác giả, Phiếm thần luận là chủ nghĩa duy vật, “ nó không tin vào những linh hồn không có cơ thể hoặc sự bất tử của linh hồn sau khi chết. Phiếm thần luận quan tâm đến sự bất tử của cá nhân bằng những phương cách hiện thực như, thông qua con cháu, thông qua những việc làm tốt, những công trình, và trong ký ức của những người đang sống” (8). Như vậy, theo Albert Einstein và những nhà triết học duy vật, không có sự bất tử tuyệt đối như quan niệm của các tôn giáo truyền thống, mà chỉ có sự bất tử tương đối được thực hiện một cách hiện thực bằng những con đường như sau: + Thông qua con cháu của chúng ta. Về mặt sinh học, thế hệ sau thông qua sự di truyền mà kế thừa có chọn lọc và phát triển tất cả những gì mà cơ thể chúng ta đã đạt được. Về mặt ý thức, thế hệ sau sẽ kế thừa những tri thức khoa học, kinh nghiệm sống và chuẩn mực đạo đức, v.v., của thế hệ đi trước. Như vậy theo quan điểm duy vật, chỉ xét về mặt thể xác thôi thì cũng đã thấy chết không phải là hết. Loài người là một dây chuyền vô tận của vô số những thế hệ nối tiếp nhau, mỗi thế hệ là sự phủ định và kế thừa những thành quả phát triển của cơ thể và ý thức của tất cả những thế hệ đi trước. Thế hệ trước để lại mầm sống cho thế hệ sau; thế hệ sau là sự nối tiếp sự sống của thế hệ trước. Cho nên, việc chuẩn bị và chăm lo về mọi mặt cho thế hệ sau cũng chính là vì sự bất tử của con người. + Sự bất tử tương đối của con người còn được thực hiện thông qua những việc làm tốt, những tấm gương hy sinh, bằng những sự nghiệp và công trình đóng góp vào sự giải phóng con người, vào sự phát triển văn hóa và văn minh nhân loại. Ở đây “có cái chết hóa thành bất tử”. + Sự bất tử tương đối còn thể hiện ở sự tồn tại lâu dài của một người đã chết trong ký ức của nhiều thế hệ mai sau. Một người chỉ thật sự chết khi hoàn toàn không còn tồn tại trong ký ức của người sống. Do đó, việc bảo quản phần mộ người chết, những kỷ vật của người chết để lại; việc thờ cúng, tổ chức kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của tổ tiên v.v., là những việc làm mang tính nhân đạo rất sâu sắc của nhiều dân tộc trên thế giới. Tóm lại, quan niệm của khoa học và chủ nghĩa duy vật về sự bất tử tương đối của con người như đã nói trên vừa có tính hiện thực và mang một ý nghĩa đạo đức rất cao so với quan niệm các tôn giáo truyền thống. Bởi vì, như Albert Einstein khẳng định: “Hành vi đạo đức của một người phải dựa một cách có hiệu quả trên tình cảm, giáo dục, những mối liên hệ và nhu cầu xã hội; không cần một cơ sở tôn giáo nào cả. Con người quả thực sẽ chẳng có gì tốt đẹp nếu anh ta phải bị kiềm chế bởi mối lo sợ bị trừng phạt hay bởi hy vọng được ban thưởng ở kiếp sau” (9). -------------------------- (1) The Atheism Web Common Arguments, infidels.org/news/atheism/arguments.html (2) Microsoft Encarta Encyclopeia 2001, Millenium, Recent Millennialist Movements. (3) Jan Garrett, Giới thiệu về Phiếm thần luận (An Introduction to Pantheism), (4) Carl Sagan, The Demon-Haunted World, 1996, trích theo Danh sách lớn những trích dẫn về chủ nghĩa vô thần tích cực, (5) Albert Einstein, trích theo: (6) Lịch sử triết học tập II, Nxb Tư tưởng Văn hóa, Hà Nội, 1992, tr. 131-132 (7) Tạp chí Positive Atheism (Chủ nghĩa Vô thần thực chứng), 31-5-2001 (8) Paul Harrison, Những nguyên lý cơ bản của Phiếm thần luận khoa học (Scientific pantheism: basic principles), members.aol.com/Heraklit1/basicpri.htm Albert Einstein, địa chỉ đã dẫn