Tóm tắt
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lênin là một đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác - Lênin, vào quá trình
hoạt động của Quốc tế Cộng sản, nhất là ở Đại hội II và vào sự phát triển của
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Trên hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc
Việt Nam khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa. Tư tưởng của Lênin trong Luận cương như thắp sáng cho Nguyễn Ái
Quốc một niềm tin, đặt cơ sở, nền tảng vững chắc về mặt lý luận để Người có thể
hình thành con đường cách mạng Việt Nam
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đối với sự hình thành con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|138
SƠ THẢO LẦN THỨ NHẤT NHỮNG LUẬN CƯƠNG VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA CỦA V.I. LÊNIN ĐỐI VỚI SỰ
HÌNH THÀNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
GVC.TS. Phạm Quang Trung*
GVC.TS. Trần Văn Lực**
Trường Đại học Sư phạm, Đại học huế
Tóm tắt
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lênin là một đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác - Lênin, vào quá trình
hoạt động của Quốc tế Cộng sản, nhất là ở Đại hội II và vào sự phát triển của
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Trên hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc
Việt Nam khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa. Tư tưởng của Lênin trong Luận cương như thắp sáng cho Nguyễn Ái
Quốc một niềm tin, đặt cơ sở, nền tảng vững chắc về mặt lý luận để Người có thể
hình thành con đường cách mạng Việt Nam.
Từ khóa: Luận cương, con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin (1870 - 1924) đã mãi mãi rời xa chúng ta nhƣng tƣ
tƣởng và những đóng góp của Ngƣời cho phong trào cách mạng thế giới thì vẫn trƣờng
tồn cùng dòng chảy bất tận của lịch sử nhân loại. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Lênin đã tập trung toàn bộ tâm lực, trí lực cho sự nghiệp giải phóng
loài ngƣời khỏi áp bức và bóc lột. Một trong những cống hiến vĩ đại của Ngƣời là sáng
lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Quốc tế Cộng sản có vai trò lớn đối với phong trào
cộng sản và công nhân thế giới. Đóng góp lớn nhất của tổ chức này là đặt vấn đề giải
phóng dân tộc thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng ở các nƣớc tƣ bản. Bản Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
đƣợc thông qua tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản đã đặt nền tảng chính trị và tƣ
tƣởng cho việc giải quyết đúng đắn những vấn đề phức tạp của phong trào giải phóng
*, **
Trƣởng Khoa và Phó Trƣởng Khoa Giáo dục Chính trị
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
139|
dân tộc ở các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc, đặc biệt là đối với cách mạng Việt Nam mà
Nguyễn Ái Quốc chính là ngƣời tiếp nhận và hình thành con đƣờng cách mạng cho dân
tộc Việt Nam.
II. NỘI DUNG
2.1. Nội dung cơ bản của Luận cương
Năm 1917, Cách mạng tháng Mƣời Nga thắng lợi, đó là cuộc cách mạng vô sản
đầu tiên trên thế giới. Với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga, đó là một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trƣớc cách mạng “nƣớc Nga là nhà tù của các dân
tộc”. Cách mạng tháng Mƣời Nga đã nêu tấm gƣơng sáng về sự giải phóng dân tộc bị
áp bức, đã “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng
dân tộc” [4; tr.562]. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nƣớc tƣ bản chủ
nghĩa phƣơng Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa phƣơng Đông có
quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc.
Sau Cách mạng tháng Mƣời Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hiện thực, đƣợc
truyền bá rộng rãi khắp nơi, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở nhiều nƣớc tƣ
bản chủ nghĩa và thuộc địa vào năm 1918 nhƣ: Đảng Cộng sản Áchentina, Đảng Cộng
sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari, Đảng Cộng sản Phần Lan, Đảng Cộng sản Áo,
Đảng Cộng sản Ba Lan... Tháng 3/1919, theo sáng kiến của Lênin, Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) đƣợc thành lập tại Mátxcơva để lãnh đạo thống nhất các Đảng Cộng sản
và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.
Từ Đại hội I (3/1919) đến Đại hội II (từ 19/7 đến 7/8/1920) của Quốc tế Cộng sản
là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới và ngày càng có thêm
nhiều quần chúng lao động đƣợc thu hút vào cuộc đấu tranh theo con đƣờng của Cách
mạng tháng Mƣời Nga. Trong điều kiện đó, Lênin soạn Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa1. Tác phẩm tuy ngắn gọn nhƣng vô
cùng quan trọng. Nó đã củng cố những nguyên tắc mácxít về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa, đồng thời phát triển thêm những luận điểm mới về cách mạng giải phóng dân
tộc ở một nƣớc thuộc địa. Những luận cƣơng đó đã đƣợc Đại hội II Quốc tế Cộng sản
thông qua và coi là Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng
sản trong tình hình lúc bấy giờ.
Ngoài phần yêu cầu sửa chữa, bổ sung, điều chỉnh, nội dung của Sơ thảo lần thứ
1
Tác phẩm đƣợc in trong sách V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.197-206.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|140
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa bao gồm 12 luận điểm.
Phân tích những luận điểm đó, chúng ta nhận thấy rằng Luận cƣơng của Lênin nêu lên
một số vấn đề lớn:
- Vạch rõ bản chất của dân chủ tư sản và tố cáo chiến tranh đế quốc.
Luận điểm thứ nhất đã vạch rõ, chế độ dân chủ tƣ sản chỉ là hình thức và lừa dối,
bình đẳng dân tộc là trừu tƣợng, hình thức không thực tế vì dân chủ tƣ sản chỉ núp dƣới
tự do, bình đẳng cá nhân nói chung. Tuyên bố tự do bình đẳng “giữa kẻ hữu sản và
ngƣời vô sản, giữa kẻ bóc lột và ngƣời bị bóc lột” [1; tr.198] về thực chất chỉ là muốn
thủ tiêu đấu tranh giai cấp, làm cho giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm.
Luận điểm thứ ba chỉ rõ, chiến tranh đế quốc - chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 - 1918) đã làm cho tất cả các dân tộc và các giai cấp bị áp bức thấy hết đƣợc “tính
chất lừa dối trong những lời nói văn hoa của bọn dân chủ tƣ sản” [1; tr.199]2.
- Đặt vấn đề dân tộc gắn với vấn đề thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản.
Theo Lênin, quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm quyền tự quyết của các dân
tộc thuộc địa phải đi đến công nhận, thực hiện quyền độc lập tự chủ chứ không phải chỉ
có tự trị văn hóa. Quyền độc lập tự chủ này không phải riêng cho các dân tộc da trắng,
mà cho tất cả các dân tộc thuộc mọi màu da.
- Kết hợp chống đế quốc và chống các thế lực phản động ở trong nước.
Trong các luận điểm, Lênin đều khẳng định: Nhiệm vụ của giai cấp vô sản ở các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc là đấu tranh chống đế quốc, đồng thời còn phải thực
hiện nhiệm vụ chống các thế lực phản động trong nƣớc nhƣ: “Đấu tranh chống giới tu
hành cùng những phần tử phản động và trung cổ khác đang còn có ảnh hƣởng trong
các nƣớc chậm tiến” [1; tr.203], “chống chủ nghĩa Đại Hồi và những xu hƣớng
tƣơng tự mƣu toan liên hợp phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc châu
Âu và châu Mỹ với việc củng cố địa vị của bọn vua chúa, bọn địa chủ, bọn mu-la”
[1; tr.203-204].
- Mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Khi bàn về mối quan hệ này, Lênin đề cập ở luận điểm thứ mười một nhƣ sau:
Đối với các quốc gia dân tộc thuộc địa và phụ thuộc thì: “Nhất thiết phải có sự giúp đỡ
2
Thông qua các hoạt động thực tiễn nhƣ: hòa ƣớc Brét Litốpxcơ (3/1918), Đức buộc Nga phải chịu
những điều khoản rất nghiệt ngã; hòa ƣớc Véc-xây (1919) của các nước dân chủ phương Tây khét
tiếng với chƣơng trình 14 điểm của Tổng thống Mỹ Uyn-xơn là một trò bịp bợm, một hành vi dối
trá với các dân tộc nhỏ yếu và các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc; Hội quốc liên và toàn bộ những
chính sách của khối Đồng minh còn bộc lộ sự giả dối, lừa bịp của chế độ dân chủ tƣ sản một cách
rõ ràng và đậm nét hơn.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
141|
của tất cả các đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân chủ tƣ sản của những
nƣớc ấy; công nhân của một nƣớc đang thống trị một dân tộc chậm tiến về mặt thuộc
địa hoặc về mặt tài chính phải có nhiệm vụ trƣớc tiên ủng hộ tích cực nhất phong trào
giải phóng của dân tộc ấy” [1; tr.203]3.
- Sự đoàn kết chặt chẽ giữa phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức
với nhau và với các nước đã làm cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công.
Đây là một trong những nội dung quan trọng và là giải pháp liên kết các dân tộc
bị áp bức lại với nhau theo tinh thần chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế chân
chính. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiến tới hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Quốc tế Cộng sản đã tạo ra bƣớc chuyển biến lớn trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế cũng nhƣ trong phong trào giải phóng dân tộc hiện đại. Lần đầu tiên
trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế, Lênin và Quốc tế III đặt ra vấn đề liên minh
giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nƣớc tƣ bản công nghiệp phát triển với
phong trào giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa. Khi chủ nghĩa tƣ bản phát triển
thành chủ nghĩa tƣ bản đế quốc với hệ thống thuộc địa trải rộng khắp thế giới, giai cấp
vô sản ở các nƣớc tƣ bản có trách nhiệm giúp đỡ ngƣời anh em của mình tại các nƣớc
thuộc địa, cuộc cách mạng ở vô sản chính quốc cần phải phối hợp chặt chẽ với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa.
Trong luận điểm thứ sáu, Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải thực hiện sự đoàn kết
giữa các dân tộc và thuộc địa đối với nƣớc Nga. Lênin cho rằng, những ngƣời lao động
thuộc các dân tộc khác nhau “cần phải thi hành một chính sách thực hiện sự liên minh
chặt chẽ nhất của tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa với nƣớc Nga
Xô viết” [1; tr.200]. Từ đó, vấn đề đặt ra là cần tìm một hình thức phù hợp để thực hiện
3
Trong Đại hội II của Quốc tế Cộng sản, Lênin còn trình bày văn kiện Điều kiện kết nạp vào Quốc
tế Cộng sản với 21 điều, trong đó Điều 8 về vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức quy định: “Đảng
nào muốn gia nhập Quốc tế III đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn
đế quốc “nƣớc mình” trong các thuộc địa, ủng hộ trên thực tế - chứ không phải bằng lời nói - mọi
phong trào giải phóng ở thuộc địa; đòi hỏi phải trục xuất bọn đế quốc nƣớc mình ra khỏi các thuộc
địa ấy; gây trong lòng công nhân nƣớc mình thái độ anh em chân thành với nhân dân lao động các
nƣớc thuộc địa và các dân tộc bị áp bức; và tiến hành tuyên truyền một cách có hệ thống trong quân
đội nƣớc mình chống mọi sự áp bức các dân tộc thuộc địa” [1; tr.252].
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|142
sự liên minh trên. Theo Lênin, hình thức đó chính là Liên bang - “hình thức quá độ tiến
tới thống nhất hoàn toàn những ngƣời lao động thuộc các dân tộc khác nhau” [1; tr.200]4.
Ở luận điểm thứ mười, Lênin đặt vấn đề về sự đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản:
“Lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vụ sản trong một nƣớc phải phục tựng lợi ích của
cuộc đấu tranh của giai cấp vụ sản trong phạm vi toàn thế giới” [1; tr.203].
Kết thúc bản Luận cƣơng, Lênin khẳng định: “Không có sự cố gắng tự nguyện tiến
tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần
chúng cần lao thuộc tất cả các nƣớc và các dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể chiến
thắng hoàn toàn chủ nghĩa tƣ bản đƣợc” [1; tr.206].
- Vai trò của chuyên chính vô sản.
Luận điểm thứ năm khẳng định: “Tình hình chính trị thế giới hiện nay đã đặt vấn
đề chuyên chính vô sản thành vấn đề trƣớc mắt” [1; tr.199]. Vì thế, phải bảo vệ, giữ
vững nền chuyên chính vô sản Nga. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi lẽ nƣớc Cộng hòa
Xô viết Nga là nƣớc tập hợp xung quanh mình các phong trào của công nhân tiên tiến ở
tất cả các nƣớc ủng hộ nhà nƣớc Xô viết và tất cả các phong trào giải phóng dân tộc ở
các nƣớc thuộc địa.
- Nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản đối với vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Nhiệm vụ cơ bản của các Đảng Cộng sản là đấu tranh chống chế độ dân chủ tƣ
sản, vạch trần sự dối trá và giả nhân giả nghĩa của nó; lãnh đạo giai cấp công nhân và
quần chúng cần lao thực hiện sứ mệnh thiêng liêng, cao cả là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng con ngƣời.
- Nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu và các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc thành lập Đảng
Cộng sản và chỉ đạo, uốn nắn quá trình trƣởng thành của các Đảng non trẻ mới ra đời;
“làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nƣớc gần
gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai
4
Trên thực tế, hình thức này đã tỏ rõ tính chất hợp lý trong mối liên hệ giữa Cộng hòa liên bang xã
hội chủ nghĩa Xô viết Nga với các Cộng hòa Xô viết khác nhƣ: Hunggari, Phần Lan, Adécbaigian và
Ucraina. Cho đến ngày 30/12/1922 tại Mátxcơva, Đại hội lần thứ nhất các Xô viết toàn Liên bang
đƣợc tiến hành và nhất trí thông qua bản Tuyên ngôn thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết (Liên Xô). Sự kiện này đánh dấu sự thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa
Lênin, của tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc trong quốc gia công nông đầu tiên trên thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử, loài ngƣời tiến bộ đã thấy một con đƣờng giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc, đó là thủ tiêu mọi bất bình dân tộc và xây dựng một cộng đồng anh em giữa các dân tộc.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
143|
cấp tƣ sản. Bởi vì, chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tƣ bản,
nếu không có chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu đƣợc ách áp bức dân tộc và tình
trạng bất bình đẳng” [1; tr.199]; vạch rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nền dân chủ
tƣ sản và chứng minh đƣợc tính ƣu việt của chế độ và chuyên chính Cộng hòa Xô viết;
tiếp tục phát triển, nghiên cứu và dùng kinh nghiệm để kiểm tra lại các liên bang đã
đƣợc thành lập; tiếp tục tuyên truyền và hiện thực hiện những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Thông qua Luận cƣơng, Lênin đã nêu lên các luận điểm mới quan trọng đối với
phong trào giải phóng dân tộc là giai cấp vô sản các chính quốc và quần chúng lao động
ở tất cả các dân tộc phải gần gũi nhau để tiến hành cuộc cách mạng chung lật đổ bọn địa
chủ và tƣ sản; là công nhân các chính quốc phải tích cực ủng hộ phong trào giải phóng
dân tộc; là chế độ Xô viết, một chế độ thật sự bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc.
Đại hội II của Quốc tế Cộng sản đã đề ra đƣợc một chiến lƣợc liên minh, đoàn kết
của tất cả các lực lƣợng vô sản yêu nƣớc và tiến bộ trên thế giới. Khẩu hiệu nổi tiếng
của C. Mác nêu ra ở cuối tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vô sản toàn thế
giới liên hiệp lại!” đã đƣợc Đại hội II phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đây là bƣớc ngoặt to lớn trong nghệ thuật lãnh đạo
chính trị của những ngƣời cộng sản, làm cho Quốc tế Cộng sản trở thành ngƣời lãnh
đạo của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Luận cƣơng đã giúp những ngƣời yêu nƣớc và cộng sản trên toàn thế giới hiểu rõ
hơn về vai trò, vị trí của cách mạng thuộc địa. Từ đó, họ có những suy nghĩ và hành
động đúng đắn nhằm tìm ra con đƣờng cứu nƣớc cho dân tộc mình và giúp đỡ, ủng hộ
thiết thực đối với phong trào cách mạng chung của toàn thế giới. Hàng loạt các Đảng
Cộng sản ở nhiều nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và thuộc địa đƣợc thành lập nhƣ: Đảng Cộng
sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Mông Cổ, Đảng Cộng sản Italia, Đảng Cộng sản Ai Cập, Đảng
Cộng sản Nam Phi (1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản, Đảng Cộng sản Braxin (1922),
Đảng Cộng sản Cuba (1925), Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)...
2.2. Ảnh hưởng của Luận cương đối với sự hình thành con đường cách mạng Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đã
giúp các dân tộc nhỏ yếu, thuộc địa và phụ thuộc tìm thấy con đƣờng đi cho dân tộc
mình: con đường cách mạng vô sản. Trong hàng loạt các nƣớc tìm thấy và lựa chọn
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|144
con đƣờng cách mạng vô sản vào những năm nửa đầu thế kỷ XX thì Việt Nam là một
trong những nƣớc sớm nhất và tiêu biểu nhất.
Việc tìm ra con đƣờng cách mạng vô sản “để cho cả dân tộc theo đi” là một quá
trình đấu tranh, lựa chọn đầy gian khổ chứ không phải ngẫu nhiên. Chỉ có lòng yêu
nƣớc nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá và phƣơng pháp tƣ duy sáng suốt của một bậc
anh minh mới đƣa Ngƣời đến với sự lựa chọn lịch sử ấy. Tƣ duy về con đƣờng giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đƣợc hình thành trên cơ sở nền tảng
văn hoá, thực tiễn của dân tộc và thời đại và vào những phẩm chất cá nhân của Ngƣời.
Trƣớc yêu cầu cấp bách phải tìm một con đƣờng cứu nƣớc mới, bằng thiên tài trí
tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra nƣớc ngoài tìm
đƣờng cứu nƣớc. Ngƣời đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nƣớc tƣ bản
phát triển nhƣ Mỹ, Pháp, Anh. Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn các cuộc
cách mạng tƣ sản Mỹ và Pháp, đồng thời tham gia lao động và đấu tranh trong hàng
ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các màu da, Ngƣời nhận ra rằng,
những cuộc cách mạng ấy là “những cuộc cách mạng chƣa đến nơi”, nghĩa là cách
mạng rồi mà nhân dân lao động ở đó vẫn chƣa đƣợc giải phóng, vẫn còn bị áp bức, bóc
lột và rất cực khổ. Vì vậy, sự nghiệp cứu nƣớc, giải phóng dân tộc khỏi mọi áp bức,
bóc lột không thể đi theo con đƣờng của những cuộc cách mạng đó, mà phải theo con
đƣờng khác.
Cuối năm 1917, Ngƣời từ nƣớc Anh trở lại nƣớc Pháp và tham gia các hoạt động
xã hội, đặc biệt Ngƣời rất quan tâm tìm hiểu Cách mạng tháng Mƣời Nga. Ngƣời ủng
hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Nga chống lại sự can thiệp của bọn đế quốc, nhƣng
chƣa hiểu rõ ý nghĩa của Cách mạng tháng Mƣời. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc
đƣợc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Ngƣời tìm thấy sự chỉ dẫn về con
đƣờng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa nói chung và ở Việt Nam
nói riêng ở những luận điểm 5, 6, 8, 9, 11 của Luận cương. Những luận điểm ấy đã
nhấn mạnh rằng, cần phải có sự giúp đỡ của các Đảng cộng sản và giai cấp công nhân ở
các nƣớc tiên tiến đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và lạc hậu; tất cả
những ngƣời vô sản và quần chúng lao động của các nƣớc trên thế giới cùng nhau tiến
hành một cuộc đấu tranh cách mạng chung; đối với các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và
nhỏ yếu, không có con đƣờng nào khác ngoài con đƣờng liên minh với nƣớc Cộng hòa
Xô viết. Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ở Luận cƣơng của Lênin con đƣờng giải phóng dân
tộc và rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [4; tr.314].
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
145|
Đi theo con đƣờng cách mạng vô sản có nghĩa là cần phải xây dựng khối đoàn kết
và liên minh chiến đấu với giai cấp vô sản thế giới, trong đó có giai cấp công nhân và
nhân dân lao động chính quốc. Ngƣời cho rằng: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có
một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” [2; tr.266].
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Nguyễn Ái
Quốc đã “bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III” và “hoàn toàn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế III” [5; tr.471]. Ngƣời từ chối Quốc tế II vì nó ủng hộ chính sách đế quốc
chủ nghĩa mà bọn tƣ bản thực hiện ở các nƣớc thuộc địa, hoặc nếu có nói quyền tự
quyết thì chỉ đáp ứng cho các dân tộc da trắng, lờ đi các dân tộc da đen hoặc chỉ nói
quyền tự trị văn hóa. Nguyễn Ái Quốc đứng về phía Quốc tế III vì nó giải quyết hợp lý
vấn đề gia