1. Đặt vấn đề
Ở cấp Tiểu học, Tiếng Việt được coi
là môn học công cụ, có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh. Việc sử dụng thành thạo tiếng
Việt thể hiện ở các kĩ năng: nghe, nói,
đọc, viết. Trên cơ sở sử dụng thành thạo
tiếng Việt, các em mới có thể học tốt môn
Tiếng Việt và các môn học khác.
Tập đọc là một phân môn của môn
Tiếng Việt. Trong giờ Tập đọc lớp 4, lớp
5, nhiều học sinh chưa thật hứng thú với
giờ học. Khi học một bài Tập đọc, các em
có thể đọc đúng, đọc diễn cảm, nhưng các
em lại lúng túng khi đọc hiểu văn bản.
Các em chỉ dừng ở mức độ nhận diện và
hiểu nghĩa văn bản (nghĩa từ ngữ, câu,
đoạn, văn bản). Ngoài ra, giáo viên
thường chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi được
thiết kế sẵn trong sách giáo khoa (sách
giáo khoa ít câu hỏi về nghệ thuật của bài
đọc, ít câu hỏi liên hệ, đánh giá).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo (số 29-NQ/TW) ban
hành ngày 4/11/2013; Nghị quyết về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo
dục phổ thông (số 88/2014/QH13) ban
hành ngày 28/11/2014 và Quyết định phê
duyệt đề án đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông (số
404/QĐ-TTg) ban hành ngày 27/3/2015
đều xác định mục tiêu đổi mới Chương
trình giáo dục phổ thông là góp phần
chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ
kiến thức sang nền giáo dục phát triển
toàn diện phẩm chất và năng lực người
học. Vì thế, việc dạy học Tập đọc tất yếu
phải đổi mới cùng với các môn học khác
trong nhà trường Tiểu học.
Liên tưởng, tưởng tượng là những
năng lực cần thiết và quan trọng cần rèn
luyện cho học sinh nhằm giúp học sinh
hiểu và cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác
phẩm khi học phân môn Tập đọc. Nhờ sự
liên tưởng, tưởng tượng, các em mới có thể
hiểu được những điều ẩn chứa mà tác giả
gửi gắm trong văn bản. Liên tưởng, tưởng
tượng là những hoạt động cần thiết trong
quá trình chiếm lĩnh giá trị của văn bản.
Trong phạm vi của bài viết, tác giả tìm
hiểu về liên tưởng, tưởng tượng trong phân
môn Tập đọc ở lớp 4, 5. Từ đó đề xuất các
biện pháp nhằm góp phần khơi gợi và nâng
cao năng lực liên tưởng, tưởng tượng cho
học sinh khi học phân môn Tập đọc.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 98 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy năng lực liên tưởng và tưởng tượng của học sinh trong phân môn Tập đọc Lớp 4, 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 72 (06/2020) No. 72 (06/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
95
PHÁT HUY NĂNG LỰC LIÊN TƯỞNG VÀ TƯỞNG TƯỢNG
CỦA HỌC SINH TRONG PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4, 5
Improving students’ capacity of association and imagination in
Reading class of grades 4 and 5
ThS. Nguyễn Thị Minh Phương
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Bài viết tập trung nghiên cứu vấn đề liên tưởng, tưởng tượng trong phân môn Tập đọc của học sinh lớp
4, 5. Từ đó, bài viết đưa ra những biện pháp để giúp học sinh phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng
trong phân môn Tập đọc.
Từ khoá: liên tưởng, phân môn Tập đọc, tưởng tượng
ABSTRACT
The paper focuses on students’ imagination and imagination in the reading class of grades 4 and 5. The
paper also offers measures to help students develop the capacity of association and imagination in the
reading class.
Keywords: association, Reading class, imagination
1. Đặt vấn đề
Ở cấp Tiểu học, Tiếng Việt được coi
là môn học công cụ, có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh. Việc sử dụng thành thạo tiếng
Việt thể hiện ở các kĩ năng: nghe, nói,
đọc, viết. Trên cơ sở sử dụng thành thạo
tiếng Việt, các em mới có thể học tốt môn
Tiếng Việt và các môn học khác.
Tập đọc là một phân môn của môn
Tiếng Việt. Trong giờ Tập đọc lớp 4, lớp
5, nhiều học sinh chưa thật hứng thú với
giờ học. Khi học một bài Tập đọc, các em
có thể đọc đúng, đọc diễn cảm, nhưng các
em lại lúng túng khi đọc hiểu văn bản.
Các em chỉ dừng ở mức độ nhận diện và
hiểu nghĩa văn bản (nghĩa từ ngữ, câu,
đoạn, văn bản). Ngoài ra, giáo viên
thường chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi được
thiết kế sẵn trong sách giáo khoa (sách
giáo khoa ít câu hỏi về nghệ thuật của bài
đọc, ít câu hỏi liên hệ, đánh giá).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo (số 29-NQ/TW) ban
hành ngày 4/11/2013; Nghị quyết về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo
dục phổ thông (số 88/2014/QH13) ban
hành ngày 28/11/2014 và Quyết định phê
duyệt đề án đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông (số
404/QĐ-TTg) ban hành ngày 27/3/2015
Email: ntmphuong@sgu.edu.vn
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
96
đều xác định mục tiêu đổi mới Chương
trình giáo dục phổ thông là góp phần
chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ
kiến thức sang nền giáo dục phát triển
toàn diện phẩm chất và năng lực người
học. Vì thế, việc dạy học Tập đọc tất yếu
phải đổi mới cùng với các môn học khác
trong nhà trường Tiểu học.
Liên tưởng, tưởng tượng là những
năng lực cần thiết và quan trọng cần rèn
luyện cho học sinh nhằm giúp học sinh
hiểu và cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác
phẩm khi học phân môn Tập đọc. Nhờ sự
liên tưởng, tưởng tượng, các em mới có thể
hiểu được những điều ẩn chứa mà tác giả
gửi gắm trong văn bản. Liên tưởng, tưởng
tượng là những hoạt động cần thiết trong
quá trình chiếm lĩnh giá trị của văn bản.
Trong phạm vi của bài viết, tác giả tìm
hiểu về liên tưởng, tưởng tượng trong phân
môn Tập đọc ở lớp 4, 5. Từ đó đề xuất các
biện pháp nhằm góp phần khơi gợi và nâng
cao năng lực liên tưởng, tưởng tượng cho
học sinh khi học phân môn Tập đọc.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm về liên tưởng, tưởng tượng
Có nhiều khái niệm về liên tưởng,
tưởng tượng.
Theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ học
Hoàng Phê, “liên tưởng: nhân sự việc, hiện
tượng nào đó mà nghĩ tới sự việc, hiện
tượng khác có liên quan” (ví dụ: Nghe
tiếng pháo liên tưởng tới ngày Tết) [8,
tr.568]; “Tưởng tượng: tạo ra trong trí óc
hình ảnh những cái không có ở trước mắt
hoặc chưa hề có” (ví dụ: Tưởng tượng
ngày con khôn lớn) [8, tr.1082].
Liên tưởng, tưởng tượng là những
năng lực không thể thiếu trong đời sống
của con người. Nhất là khi đọc các tác
phẩm văn học, không thể thấy được sức
hấp dẫn, cảm thụ được cái hay, cái đẹp mà
tác giả gửi gắm nếu như không liên tưởng,
tưởng tượng.
2.2. Nhiệm vụ của phân môn Tập đọc
Nhiệm vụ của phân môn Tập đọc là
giúp hình thành năng lực đọc cho học sinh;
giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
phương pháp và thói quen đọc sách cho
học sinh; làm giàu kiến thức về ngôn ngữ,
đời sống, kiến thức văn học, phát triển
ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng, đạo
đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học
sinh. Trong ba nhiệm vụ trên, nhiệm vụ
hình thành năng lực đọc cho học sinh là
nhiệm vụ đặc trưng của phân môn Tập đọc.
Thông qua hệ thống bài đọc theo chủ
điểm và những câu hỏi tìm hiểu bài, phân
môn Tập đọc ở lớp 4, lớp 5 cung cấp cho
học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã
hội và con người, cung cấp vốn từ, tăng
cường khả năng diễn đạt, trang bị một số
hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học (như
đề tài, cốt truyện, nhân vật) và góp phần
rèn luyện nhân cách cho học sinh. Các bài
tập đọc ở lớp 4 là các văn bản khoa học,
nghệ thuật (thơ, văn xuôi), báo chí có độ
dài khoảng 250 chữ. Các bài tập đọc ở lớp
5 là các văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi,
kịch), hành chính, khoa học, báo chí có độ
dài khoảng 250 - 300 chữ. Việc luyện đọc
ở hai lớp này đều bắt đầu chú ý đến yêu
cầu biểu cảm, câu hỏi tìm hiểu bài chú
trọng khai thác hàm ý và nghệ thuật.
2.3. Một số quy luật liên tưởng, tưởng
tượng
Khi đọc các bài Tập đọc trong sách
giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, 5, chúng ta sẽ
bắt gặp rất nhiều hình ảnh trong văn bản
được liên tưởng đến hình ảnh khác:
NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
97
Bài Tập đọc Hình ảnh trong văn bản Hình ảnh liên tưởng
Mẹ ốm (Tiếng Việt 4,
tập một, tr. 9)
Người con lo lắng khi mẹ bị
ốm
Liên tưởng đến đứa con ngoan trong
Khi mẹ vắng nhà (Trần Đăng Khoa)
Tre Việt Nam (Tiếng
Việt 4, tập một, tr. 41)
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa đã có bờ
tre xanh.”
Liên tưởng tới cây gậy tre của Phù
Đổng Thiên Vương đánh giặc giữ nước
thuở hồng hoang
Văn hay chữ tốt (Tiếng
Việt 4, tập một, tr. 129)
“Cao Bá Quát viết chữ rất xấu
nên nhiều bài văn dù hay vẫn
bị thầy cho điểm kém”
“Kiên trì luyện tập suốt mấy
năm, chữ ông mỗi ngày một
đẹp”
Liên tưởng đến bạn nào viết chữ xấu
trong lớp, sau đó bạn luyện tập, chăm
chỉ luyện viết, chữ của bạn trở nên đẹp.
Ga-vrốt ngoài chiến luỹ
(Tiếng Việt 4, tập hai,
tr.80)
Ga-vrốt Liên tưởng đến cậu bé Lượm đã học ở
lớp 2
Hành trình của bầy ong
(Tiếng Việt 5, tập một,
tr. 117)
“Tìm nơi quần đảo nơi xa
Có loài hoa nở như là không
tên”
Loài hoa này làm liên tưởng tới cuộc
đời hi sinh thầm lặng, không tên tuổi
của người chiến sĩ bảo vệ biên cương
ngoài hải đảo.
Hạt gạo làng ta (Tiếng
Việt 5, tập một, tr. 139)
“hạt gạo” Liên tưởng đến hạt gạo xưa nay là hình
ảnh cần cù làm lụng, một nắng hai
sương, mang lại ngọt bùi no ấm cho con
người:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn
phần.”
(Ca dao)
“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Liên tưởng đến sự khắc nghiệt của thiên
nhiên: cái rét tê tái, cắt da cắt thịt Rét
tháng ba bà già chết cóng” hoặc cái
nắng lửa tháng sáu :
“Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc”,
(Khi mẹ vắng nhà)
hay bão giật tháng bảy.
Nghĩa thầy trò (Tiếng
Việt 5, tập hai, tr. 79)
“Từ sáng sớm, các môn sinh
đã tề tựu trước sân nhà cụ giáo
Chu để mừng thọ thầy”
“Cụ giáo Chu chắp tay cung
kính vái và nói to:
- Lạy thầy! Hôm nay con đem
tất cả môn sinh đến tạ ơn thầy.
Liên tưởng đến việc học sinh kính trọng
các thầy cô, tình cảm của học trò đối
với người thầy.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
98
Khi đọc một bài thơ, bài văn, ngoài
việc hiểu thì người đọc cũng cần phải rung
cảm, liên tưởng, tưởng tượng, “nhập thân”
với những gì mình đã đọc. Những cây nấm
rừng trong Kì diệu rừng xanh (Tiếng Việt
5, tập một, tr. 75) đã khiến tác giả liên
tưởng tới thành phố nấm với những lâu đài
kiến trúc tân kì, thuộc kinh đô của vương
quốc những người tí hon. Chính nhờ sự
liên tưởng đó đã làm cho cảnh đẹp trở nên
đẹp thêm, như là trong thế giới cổ tích.
Đoạn văn miêu tả rừng khộp trong bài là
một bức tranh sinh động về mùa thu vàng
của “giang sơn vàng rọi”: màu vàng của lá
khộp trên cây, của lá vàng dưới đất, của
những con mang vàng, của nắng vàng,
nắng càng rực hơn khi được phản chiếu
trên các con mang.v.v. Màu vàng càng
được nhấn mạnh hơn qua sự đối lập với
màu xanh của cỏ non. Lúc này, các em có
thể tưởng tượng được khung cảnh tuyệt vời
này để có thể hiểu vì sao tác giả lại dụi mắt
ngạc nhiên, không tin vào những gì mà
mình trông thấy. Hay chỉ khi tưởng tượng,
các em mới thấy được một bức tranh tuyệt
đẹp với những hình ảnh miêu tả rất gợi
cảm vẻ đẹp của sông La trong Bè xuôi sông
La (Tiếng Việt 4, tập hai, tr.26) như nước
trong veo như ánh mắt, bờ tre xanh mướt
như hàng mi của cô gái, sóng nước long
lanh như vẩy cá; một chiếc bè kết từ những
thân gỗ to, tròn đang trôi êm giữa hai bờ
tre xanh mát, những thân gỗ nửa nổi nửa
chìm, được ví với đàn trâu đằm mình thong
thả theo dòng sông đã gợi một hình ảnh gợi
cảm giác thanh bình, thơ mộng.
Khi đọc bài thơ Ê-mi-li, con (Tiếng
Việt 5, tập một, tr.49), các em phải tái hiện,
tưởng tượng được hình ảnh anh Mo-ri-xơn
trong buổi hoàng hôn bên bờ sông Pô-tô-
mác, bế con gái Ê-mi-li 18 tháng tuổi tới
trụ sở Bộ Quốc phòng Mĩ, nơi anh tự thiêu
để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của
Mĩ ở Việt Nam; hình dung được sự phẫn
nộ của anh khi lên án cuộc chiến tranh tàn
ác, tâm trạng đau buồn khi từ biệt vợ con,
hình ảnh dũng cảm, cao thượng, quyết liệt
– tự đốt cháy thân mình thành ngọn lửa để
phản đối cuộc chiến tranh tàn bạo, thức
tỉnh mọi người nhận ra sự thật, cùng hợp
sức ngăn chặn tội ác. Hay khi đọc bài tập
đọc Một vụ đắm tàu (Tiếng Việt 5, tập hai,
tr. 108), các em cần tưởng tượng cảnh sức
mạnh của cơn bão đã khiến con tàu bị đắm:
“Cơn bão dữ dội bất ngờ nổi lên. Những
đợt sóng khủng khiếp phá thủng thân tàu,
nước phun vào khoang như vòi rồng. Hai
tiếng đồng hồ trôi qua... Con tàu chìm dần,
nước ngập các bao lơn. Quang cảnh thật
hỗn loạn.”, để thấy cơ hội được sống mong
manh, thấy được việc nhường mạng sống
cho bạn mình (Giu-li-et-ta) của Ma-ri-ô
cao cả đến nhường nào. Chính liên tưởng,
tưởng tượng đã tạo nên sức hấp dẫn cho tác
phẩm. Thiếu nó, bức tranh miêu tả bằng
ngôn từ sẽ không có hồn, mất đi sự sinh
động vốn có. Nói cách khác, để cảm thụ
được tác phẩm, cảm nhận được những giá
trị nổi bật, những điều đẹp đẽ trong tác
phẩm thì các em không thể thiếu liên
tưởng, tưởng tượng.
Tuy có những nét chung giống nhau
(vì cùng liên tưởng, tưởng tượng dựa trên
văn bản nghệ thuật) nhưng mỗi em lại có
nét riêng rất khác nhau trong liên tưởng,
tưởng tượng (liên tưởng, tưởng tượng sinh
động, cụ thể hay mờ nhạt, sơ sài). Nét
riêng đó là vốn sống, năng lực, trình độ,
tình cảm, sự nhạy cảm khi tiếp xúc với thơ
văn.v.v. Vốn sống đó có thể là những gì
các em đã trải qua, đã trông thấy qua sự
hoạt động và quan sát trong cuộc sống. Ví
dụ, để giúp học sinh hiểu được tâm trạng
ngạc nhiên của nhà văn Tuốc-ghê-nhép khi
chợt nhận ra: Cả tôi nữa, tôi cũng vừa
nhận được chút gì của ông lão (bài tập đọc
Người ăn xin, Tiếng Việt 4, tập một, tr.30),
giáo viên cần gợi cho học sinh nhớ lại cảm
xúc các em đã trải qua khi làm một điều tốt
cho người khác: em cảm thấy được “nhận”
NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
99
khi “cho”, cảm thấy vui sướng và hài lòng
về mình. Cũng nhờ có liên tưởng và tưởng
tượng mà những hình ảnh, màu sắc, đường
nét, âm thanh được tái hiện trước mắt
các em ngay cả khi các em phải tưởng
tượng ra một điều gì đó tuy tồn tại trong
thực tế mà các em lại chưa hề có trong kinh
nghiệm cá nhân của riêng mình. Ví dụ: ở
bài tập đọc Trước cổng trời (Tiếng Việt 5,
tập một, tr.80), chỉ qua mấy câu thơ nhưng
các em ở đồng bằng (chưa bao giờ đến
vùng cao) phải hình dung, tưởng tượng
được cổng trời là như thế nào để có thể
cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên
hùng vĩ và nên thơ của cổng trời trong bài
thơ, từ đó, cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh
vật nơi đây được tạo bởi sự hoà hợp giữa
con người và tự nhiên. Nhưng, có lúc vốn
sống của các em chưa đủ để liên tưởng
bông lúa vàng trĩu hạt với băng đạn cũng
vàng rực, cũng nặng trĩu trong tay người
đánh giặc:
“Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mĩ
Trút lên mái nhà...
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông”
Từ các ví dụ trên, chúng tôi đưa ra một
số quy luật liên quan đến liên tưởng, tưởng
tượng như sau:
- Thứ nhất, từ nhân vật, hình ảnh...
được miêu tả trong văn bản, liên tưởng đến
nhân vật, hình ảnh... trong văn bản khác
hay đã gặp trong cuộc sống.
- Thứ hai, hiểu văn bản và có kinh
nghiệm sống sẽ làm cho hình ảnh tưởng
tượng sát thực và phong phú hơn.
- Thứ ba, liên tưởng, tưởng tượng bắt
nguồn từ các chi tiết gợi tả, gợi cảm, tác
động tới tâm hồn và nhận thức.
2.4. Các biện pháp nâng cao năng lực
liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh lớp
4, 5 khi học phân môn Tập đọc
Trong thực tế, năng lực liên tưởng,
tưởng tượng trong quá trình học phân môn
Tập đọc của học sinh vẫn còn nhiều hạn
chế. Hầu hết các em mới chỉ biết tái hiện
lại tác phẩm, tức là mới chỉ nói được
những gì trong văn bản đã có. Các em ít có
khả năng suy nghĩ độc lập nên gặp khó
khăn khi phải trả lời câu hỏi suy luận hay
cảm thụ văn học. Do đó, có nhiều biện
pháp được các nhà sư phạm đề ra nhằm
nâng cao năng lực liên tưởng và tưởng
tượng cho học sinh lớp 4, 5 khi học phân
môn Tập đọc.
Thứ nhất, giáo viên cần nâng cao chất
lượng giờ dạy
Việc nâng cao chất lượng giờ dạy là
yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên trong
quá trình dạy học. Trong phân môn Tập
đọc, bài giảng của giáo viên cần phải hấp
dẫn từ phần Giới thiệu bài. Giới thiệu bài
hay, hấp dẫn sẽ tạo hứng thú học tập cho
học sinh, tạo tiền đề giúp các em tích cực,
chủ động trong các hoạt động tiếp theo của
bài giảng, nhất là với một số văn bản được
sáng tác trong thời kì chiến tranh.
Ví dụ: với bài Ê-mi-li, con... (Tiếng
Việt 5, tập một, tr.49), giáo viên có thể giới
thiệu: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
các phong trào phản đối chiến tranh ở Việt
Nam và bày tỏ tinh thần ủng hộ Việt Nam
diễn ra ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bài
thơ Ê-mi-li, con... được nhà thơ Tố Hữu
viết để ca ngợi hình ảnh của một người Mĩ
- ông Mo-ri-xơn, đã đứng lên phản đối
chính quyền Mỹ ở Việt Nam. Ông đã dùng
chính “ngọn lửa của thân thể mình” để
phản đối tội ác của quân đội Mĩ. Ngày
8/11/1965, bài thơ được đăng tải trên báo
Nhân dân đã làm xúc động bao con tim
người Việt.
Và trong quá trình dạy bài mới, giáo
viên cần giúp học sinh hiểu từ ngữ, hình
ảnh, câu, đoạn, cấu trúc của văn bản; xây
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
100
dựng câu hỏi, bài tập liên hệ, so sánh để
kích thích khả năng liên tưởng, tưởng
tượng của các em.
Hiện nay, ở bậc Tiểu học, giáo viên đã
và đang sử dụng nhiều kĩ thuật dạy học tích
cực như: kĩ thuật đặt câu hỏi; kĩ thuật dạy
học hợp tác theo nhóm; kĩ thuật “Khăn trải
bàn”; kĩ thuật mảnh ghép; kĩ thuật “Sơ đồ
tư duy”; kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích
cực.v.v. Điều đó giúp các em học tập tốt
hơn khi học phân môn Tập đọc nói riêng,
các môn học khác nói chung.
Thứ hai, cung cấp thêm thông tin về
bài đọc (tác giả, xuất xứ, những câu
chuyện liên quan đến bài đọc)
Mỗi văn bản gắn với một hoàn cảnh
sáng tác cụ thể. Hoàn cảnh sáng tác thường
chi phối nội dung văn bản. Nhưng trong
giờ Tập đọc, giáo viên thường ít nói về tác
giả, nguồn gốc ra đời của bài đọc. Do thời
gian một tiết dạy ở tiểu học chỉ 35 phút,
giáo viên thường dành thời gian cho việc
luyện đọc và tìm hiểu nội dung bài. Ngoài
ra, trình độ học sinh không đồng đều cũng
khiến giáo viên không cung cấp nhiều
thông tin xung quanh bài đọc. Vì thế, tuỳ
theo tình hình thực tế, giáo viên có thể
cung cấp thông tin cho các em trong các
tiết sinh hoạt, ngoại khoá.v.v.
Ví dụ: Do học sinh sống trong thời
bình nên các em rất khó cảm nhận cái hay,
cái đẹp của bài tập đọc Hạt gạo làng ta
(Tiếng Việt 5, tập một, tr.139). Giáo viên
cần cung cấp cho học sinh không chỉ thời
gian mà tác giả Trần Đăng Khoa viết bài
thơ mà cả cái nhìn của tác giả về hạt gạo.
Tác giả Trần Đăng Khoa viết bài thơ này
năm 1969, lúc đó tác giả 11 tuổi, đang học
lớp 5 trường làng. Đây là giai đoạn chiến
tranh đang khốc liệt. Hạt gạo được làm ra
trong chiến tranh cực khổ biết chừng nào.
Thứ ba, tích luỹ vốn hiểu biết về thực
tế cuộc sống
Đây là một biện pháp quan trọng để
nâng cao năng lực liên tưởng, tưởng tượng.
Bởi lẽ, liên tưởng, tưởng tượng không phải
tự nhiên mà có mà được xây dựng bằng
những yếu tố từ trong thực tế và đã có
trong kinh nghiệm của con người. Cho các
em quan sát ngay trong cuộc sống gần gũi,
thân thiết của chính các em. Tập quan sát
thường xuyên, quan sát bằng nhiều giác
quan (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi
ngửi). Quan sát nhiều, quan sát kĩ không
những giúp các em viết được những bài
văn hay mà còn tạo điều kiện cho trí tưởng
tượng phong phú và đa dạng hơn.
Để nâng cao sự liên tưởng, tưởng
tượng cho học sinh, giáo viên tổ chức cho
các em được tham gia các buổi hoạt động
ngoại khoá; tổ chức các cuộc giao lưu với
các nhà văn, nhà thơ; tích hợp kiến thức
giữa các môn học khác.v.v.
Thứ tư, khuyến khích học sinh đọc sách
Bên cạnh bồi dưỡng vốn sống, các em
còn cần tích luỹ vốn hiểu biết thông qua
việc đọc sách. Chỉ có đọc sách, các em mới
mở mang kiến thức, khám phá thế giới,
nhất là khi đọc các tác phẩm văn chương,
các em rung động tình cảm, bồi dưỡng tâm
hồn, kích thích trí tưởng tượng, tăng khả
năng sáng tạo.v.v. Giáo viên cần giúp các
em cảm nhận việc đọc sách là một nhu cầu
cần thiết của đời sống. Các em phải lựa
chọn cuốn sách phù hợp với lứa tuổi và có
sức hấp dẫn. Đọc để rung cảm sâu sắc cùng
tác phẩm, “sống” cùng với nhân vật. Song
các em cũng cần chọn lọc, ghi chép để có
thể lưu lại những điều mà mình đã đọc, làm
giàu thêm vốn sống. Càng hiểu biết sâu sắc
về thực tế cuộc sống và văn học, trí tưởng
tượng của các em càng phong phú và chân
thực hơn.
Trong lớp, các em có thể xây dựng
một tủ sách hay ở nhà có một tủ sách của
riêng mình.
- Thứ năm, trao dồi hứng thú khi tiếp
xúc với thơ văn
Ngay từ khi còn nhỏ, hầu hết các em
đều thích nghe ông bà, cha mẹ kể
NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
101
chuyện, đọc thơ. Khi vào ở trường tiểu
học, các em được tiếp xúc với các bài văn,
bài thơ, bài kể chuyện trong sách giáo khoa
Tiếng Việt. Đó chính là những nền tảng để
các em hứng thú, say mê với thơ văn. Khi
các em đã tạo cho mình sự hứng thú, các
em sẽ vượt qua những khó khăn, cố gắng
luyện tập, giúp các em phát triển năng lực
liên tưởng, tưởng tượng.
- Thứ sáu, tổ chức cho học sinh nhập vai
Trong phần Củng cố bài dạy, giáo viên
có thể cho học sinh nhập vai. Đây là hình
thức để học sinh đặt mình vào hoàn cảnh,
tâm trạng nhân vật, nói lên những cảm xúc
và ý nghĩ bộc lộ tâm lí, tính cách của nhân
vật. Để có thể nhập vai thành công, đòi hỏi
các em phải tưởng tượng mình chính là
nhân vật đó.
Ví dụ, khi học xong bài tập đọc Nỗi
dằn vặt của An-đrây-ca (Tiếng Việt 4, tập
một, tr. 55), cho học sinh nhập vai ông, mẹ
và An-đrây-ca. Nhất là nhập vai An-đrây-
ca, để nói lên nỗi sợ hãi, nỗi ân hận của em
khi em ham chơi, không đi mua thuốc liền
cho ông (Em hoảng hốt thấy mẹ đang khóc
nấc lê