Tóm tắt. Bài báo đề cập tới những cơ sở, yêu cầu về mặt lí luận trong việc giáo dục đạo
đức, thực tiễn giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường phổ thông; năng lực tổ chức hoạt
động giáo dục đạo đức và chương trình đào tạo giáo viên giáo dục công dân (GDCD) nước
ta những năm gần đây từ đó đưa ra một số đề xuất trong việc thay đổi nội dung của một số
học phần cũng như phương pháp, hình thức tổ chức kiểm tra đánh giá trong chương trình
đào tạo giáo viên GDCD góp phần hình thành và phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo
dục đạo đức cho sinh viên sư phạm, đáp ứng được yêu cầu chuẩn nghề nghiệp phổ thông.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm ngành Giáo dục công dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0047
Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 2A, pp. 224-232
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM NGÀNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Bùi Xuân Anh
Khoa Lý luận chính trị - Giáo dục công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài báo đề cập tới những cơ sở, yêu cầu về mặt lí luận trong việc giáo dục đạo
đức, thực tiễn giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường phổ thông; năng lực tổ chức hoạt
động giáo dục đạo đức và chương trình đào tạo giáo viên giáo dục công dân (GDCD) nước
ta những năm gần đây từ đó đưa ra một số đề xuất trong việc thay đổi nội dung của một số
học phần cũng như phương pháp, hình thức tổ chức kiểm tra đánh giá trong chương trình
đào tạo giáo viên GDCD góp phần hình thành và phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo
dục đạo đức cho sinh viên sư phạm, đáp ứng được yêu cầu chuẩn nghề nghiệp phổ thông.
Từ khóa: Năng lực sư phạm; năng lực tổ chức hoạt động, giáo dục đạo đức, đạo đức, sinh
viên sư phạm.
1. Mở đầu
Năng lực nghề nghiệp là năng lực chuyên môn đặc thù có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến
hiệu quả giảng dạy của người giáo viên. Đã có nhiều công bố, quy định về chuẩn năng lực nghề
nghiệp giáo viên cũng như nhiều nhà nghiên cứu nghiên việc đào tạo phát triển năng lực nghề
nghiệp cho giáo viên phổ thông [1, 4, 5] và thực trạng năng lực giáo viên [3, 5, 6, 10]. Các nghiên
cứu này đã chỉ ra tầm quan trọng của năng nghề nghiệp, những yêu cầu năng lực nghề nghiệp đối
với giáo viên, những ưu điểm, hạn chế của năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên hiện nay.
Bên cạnh đó cũng các công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức [2, 8] cho thấy công tác giáo dục
đạo đức chưa mang lại hiệu quả mong muốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề này trong đó
năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức của giáo viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong
bối cảnh đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực người học đang diễn ra hiện nay.
Câu hỏi đặt ra là Chương trình đào tạo giáo viên GDCD hiện nay đã đáp ứng được mục tiêu hình
thành năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở mức độ nào? Cần phải thay đổi
chương trình đào tạo này như thế nào đào tạo được những người giáo viên có năng lực và tổ chức
được hiệu quả các hoạt động giáo dục đạo đức ở nhà trường phổ thông trong tương lai?
Ngày nhận bài: 15/12/2017. Ngày sửa bài: 20/2/2018. Ngày nhận đăng: 25/2/2018
Liên hệ: Bùi Xuân Anh, e-mail: xuananh1984@gmail.com
224
Phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm...
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Lí do cần đào tạo và phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo
đức cho sinh viên sư phạm
2.1.1. Giáo dục đạo đức trong bối cảnh đổi mới giáo dục đòi hỏi quá trình giáo dục đạt
được mục tiêu phát triển năng lực người học
Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và kĩ
năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực. Dạy học
theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh (HS) về hoạt động trí
tuệ, mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và
nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc
học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm
phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kĩ năng riêng lẻ của các môn
học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các
vấn đề phức hợp.
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra
khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập cần
chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau.
Dạy học theo quan điểm phát triển năng lực cũng đặt ra những yêu cầu mới trong việc đào
tạo giáo viên ở các trường sư phạm, nhằm phát triển những năng lực sư phạm trong đó có năng lực
tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường phổ thông.
2.1.2. Mục tiêu của giáo dục đạo đức là hình thành được hành vi và thói quen đạo đức ở
người học không chỉ là tri thức đạo đức
Đạo đức, là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi,
quan hệ con người đối với nhau và đối với xã hội; là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng
theo những tiêu chuẩn nhất định mà có. Giá trị và giá trị đạo đức luôn là nội dung quan trọng với
bất kỳ xã hội nào, thời đại nào. Để đánh giá trình độ tiến bộ của các hiện tượng xã hội, thường có
sự tham gia của các tiêu chuẩn đạo đức. Hoạt động giáo dục đạo đức là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối
tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Tri thức đạo đức là yếu tố nền móng đầu tiên giúp con người có những định hình ban đầu về
giá trị đạo đức, từ đó hình thành niềm tin, nhu cầu và tình cảm đạo đức. Khi có được niềm tin, nhu
cầu, tình cảm đạo đức người ta có được động cơ, ý chí đạo đức – cái thôi thúc, thúc đẩy và giúp
con người vượt qua các rào cản để có được hành vi đạo đức . Căn cứ vào lí thuyết cấu trúc tâm lí
của hành vi đạo đức ta thấy nếu quá trình giáo dục chỉ dừng lại ở việc “dạy” đạo đức thì mới bước
đầu đạt được tri thức, niềm tin, nhu cầu, tình cảm đạo đức, chưa tạo ra được hành vi và thói quen
đạo đức. Việc giáo viên tổ chức được các hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục hướng tới và đạt
được mục tiêu hình hành vi và thói quen đạo đức cũng chính là đạt được mục tiêu phát triển năng
lực đạo đức cho người học một cách toàn diện nhất.
2.1.3. Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức là năng lực cần có của người giáo viên
Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục (HĐGD) được hiểu là sự huy động một cách linh
hoạt và có tổ chức các kiến thức, kĩ năng, thái độ và tình cảm của giáo viên (GV) để thực hiện có
hiệu quả các HĐGD ở trường phổ thông [6].
225
Bùi Xuân Anh
Hoạt động giáo dục là các hoạt động của nhà giáo dục nhằm hình thành phẩm chất, nhân
cách của HS thông qua hệ thống các tác động sư phạm. Các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt
động trong giờ lên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp HS phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động
và sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động. Theo Phan Trọng Ngọ (2015), năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục là
một trong các tiêu chí của năng lực giáo: (1). Năng lực (NL) giáo dục qua giảng dạy môn học; (2).
NL xây dựng kế hoạch giáo dục; (3). NL vận dụng phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức
giáo dục; (4). NL tổ chức hoạt động giáo dục; (5). NL xử lí các tình huống giáo dục; (6). NL giáo
dục HS có hành vi không mong đợi; (7). NL phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường; (8). NL tư vấn, tham vấn cho HS; (9). NL đánh giá sự tiến bộ và kết quả giáo dục HS;
(10). NL xây dựng, quản lí và khai thác hồ sơ giáo dục [5].
Quy định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông
(Ban hành kèm theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐ ngày 22 tháng10 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo) cũng chỉ rõ chuẩn nghề nghiệp giáo viên với các tiêu chí về năng lực dạy
học và năng lực giáo dục tại điều 6, điều 7 với 13 tiêu chí từ tiêu chí 8 đến tiêu chí 21. Theo quy
định này người giáo viên cần thực hiện được những công việc như: xây dựng kế hoạch dạy học, kế
hoạch các hoạt động giáo dục, vận dụng được các phương pháp và kĩ thuật dạy học để thực hiện
được kê hoạch dạy học, giáo dục đồng thời có năng lực đánh giá kết quả dạy học và giáo dục đó.
Khuyến nghị của hội thảo về định hướng và giải pháp đổi mới giáo dục đạo đức - công dân
ở trường phổ thông được đăng trong Thông báo TB 314/TB-BGDDT ngày 12.5.2014 về kết quả
Hội thảo toàn quốc về công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên đã nhấn mạnh:
Giáo viên giáo dục đạo đức - công dân vừa phải có những năng lực nghề nghiệp đáp ứng quy định
về chuẩn nghề nghiệp giáo viên vừa phải có những năng lực nghề nghiệp đặc thù của người giáo
viên giáo dục đạo đức-công dân như: có năng lực công dân tiêu biểu (có nhân cách người công dân
Việt Nam trong thời đại mới, là tấm gương đạo đức cho học sinh noi theo); có năng lực đánh giá
đạo đức thông qua quan sát các hành vi đạo đức của học sinh; có năng lực tổ chức hoạt động thực
tiễn. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đạo đức - công dân cần rà soát, xây dựng chương trình
(CT) đào tạo đáp ứng các yêu cầu về năng lực nghề nghiệp giáo viên nói chung như: Tăng cường
giáo dục đạo đức và trách nhiệm nhà giáo, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, năng lực phát triển CT
giáo dục của nhà trường phổ thông, năng lực đánh giá học sinh; các năng lực nghề nghiệp đặc thù
của người giáo viên đạo đức-công dân, gắn quá trình đào tạo với thực tiễn nhà trường phổ thông;
bổ sung những nội dung mới theo chủ trương của Bộ GDĐT và yêu cầu thực tế vào CT đào tạo [2].
Tất cả những nghiên cứu về năng lực sư phạm cũng như các văn bản pháp lí nêu trên đều
cho thấy năng lực tổ chức hoạt động giáo dục trong đó hoạt động giáo dục đạo đức là yêu cầu cần
có của người giáo viên GDCD để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục. Không những thế bản thân người
giáo viên, sinh viên sư phạm cũng cần phải có những năng lực.
2.1.4. Thực tiễn giáo dục phổ thông và đào tạo giáo viên hiện nay vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu giáo dục đạo đức theo định hướng phát triển năng lực
Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh sinh viên (HSSV) là công tác quan trọng, thường
xuyên, liên tục của ngành Giáo dục. Cả cán bộ, giáo viên và HSSV đều coi trọng công tác giáo
dục đạo đức lối sống. Trong những năm gần đây, công tác giáo dục đạo đức lối sống cho HSSV đã
được đổi mới nội dung và phương pháp thực hiện và thu được những kết quả tích cực. Tuy nhiên,
cùng với sự biến đổi nhanh chóng của đời sống xã hội và những tác động mặt trái của kinh tế thị
trường, công tác này còn bộc lộ những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Thực tiễn cho thấy, những
226
Phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm...
tồn tại, hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức lối sống cho HSSV thể hiện ở những điểm sau:
Một là, chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu mới hiện
nay, phương pháp giáo dục ở nhiều nơi chậm đổi mới do tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu
phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế. Hai là, các điều kiện đảm bảo cho công tác giáo dục
đạo đức lối sống còn nhiều bất cập: Đội ngũ giáo viên phụ trách công tác giáo dục đạo đức lối
sống còn thiếu, chưa được đào tạo bài bản. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trong các nhà trường chưa
đáp ứng yêu cầu vui chơi, rèn luyện sức khỏe cho HSSV; ngân sách cấp cho công tác này chưa
được ưu tiên. Ba là, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương chưa được thể chế hóa
nên nhiều cấp chính quyền thiếu chủ động trong việc đưa ra chủ trương và giải quyết các vấn đề
cụ thể của công tác giáo dục tại địa phương. Bốn là, các yếu tố tiêu cực, khách quan của xã hội
thâm nhập vào nhà trường, ảnh hưởng xấu tới đạo đức lối sống của HSSV. Một bộ phận giáo viên,
cán bộ quản lí giáo dục và người lớn, cha mẹ HS chưa làm gương cho HSSV noi theo. Năm là,
công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội còn lỏng lẻo, cơ chế trao đổi còn yếu và xử
lí thông tin chậm được xử lí [2].
Như vậy trong năm hạn chế yếu kém trên trong công tác giáo dục đạo đức lối sống trên thì
có tới 4 hạn chế yếu kém xuất phát từ phía giáo viên và công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
Để đánh giá các năng lực dạy học theo yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông,
TS Phạm Thị Kim Anh khi thực hiện đề tài cấp Trường - MS: SPHN 16-01-VNCSP đã tiến hành
điều tra, khảo sát 74 GV THCS ở các tỉnh: Hải Dương, Ninh Bình, Sơn La, Lai Châu. Kết quả cho
thấy GV đã có những năng lực cần thiết để đáp ứng với yêu cầu đổi mới GD phổ thông, nhưng số
GV có năng lực vững chắc chỉ đạt trên dưới 20%; những năng lực đã có nhưng chưa vững chắc vẫn
chiếm tỉ lệ khá cao (trên dưới 60%). Tỉ lệ GV chưa có các năng lực dạy học (DH) theo yêu cầu đổi
mới cũng còn khá nhiều (nhất là các năng lực về phát triển chương trình (54%); năng lực DH theo
phương thức trải nghiệm sáng tạo (41,8%); năng lực đổi mới, sáng tạo, cải tiến chất lượng DH và
năng lực thích ứng với các điều kiện DH khác nhau cũng có tới 40,5% GV chưa có được) [3]. Điều
này cho thấy GV trong đó có GV GDCD chưa thực sự sẵn sàng cho việc đổi mới giáo dục theo
định hướng phát triển năng lực người học đòi hỏi cần có những biện pháp đổi mới ngay từ khâu
đào tạo giáo viên ở các nhà trường sư phạm.
Chương trình đào tạo cử nhân sư phạm GDCD ở một số trường đại học sư phạm gồm 130
tín chỉ trong đó: Khối kiến thức chung (không tính các môn học GDTC và GDQP): 32 tín chỉ,
Khối kiến thức chung của nhóm ngành: 25 tín chỉ, Khối kiến thức chuyên ngành: 56 tín chỉ, Thực
tập sư phạm: 06 tín chỉ, Kiến tập sư phạm: 01 tín chỉ, Khóa luận tốt nghiệp hoặc tương đương 10
tín chỉ. Tuy nhiên, chỉ có 4 tín chỉ dành cho hai học phần Đạo đức học và giáo dục đạo đức chiếm
3,07% tổng thời lượng chương trình, Phương pháp tổ chức thực hành giáo dục đạo đức lối sống,
6 tín chỉ cho các học phần có liên quan đến giáo dục đạo đức như giáo dục giá trị sống, kĩ năng
sống chiếm 4,6% tổng thời lượng chương trình. Các học phần liên quan đến phương pháp giảng
dạy như Lí luận và phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân, Lí luận và phương pháp dạy học
môn Giáo dục công dân cũng chỉ có 6 tín chỉ. Chưa kể tỉ lệ giữa số tiết lí thuyết, thực hành của
các học phần này là 80% - 20%, đồng nghĩa với việc chương trình đào tạo vẫn nặng về lí thuyết
chưa thực sự chuyển hướng sang chương trình đào tạo theo định hướng phát triển năng lực cho
sinh viên. Thực tiễn kiến tập, thực tập sư phạm của sinh viên khoa LLCT – GDCD trong 3 năm
(2014-2017) cho thấy tới 90% học sinh đạt kết quả giỏi cả về thực tập giáo dục và thực tập giảng
dạy. Tuy nhiên, phần đông giáo viên hướng dẫn khi được hỏi ý kiến đều cho rằng: giáo sinh thực
tập chưa chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, hiệu quả giáo dục đạo đức ở nhà trường phổ thông
hiện chưa đạt được kết quả mong muốn. Có nhiều nguyên nhân nhưng một trong những nguyên
227
Bùi Xuân Anh
nhân là do năng lực sư phạm của giáo viên trong đó có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục
đạo đức của giáo viên còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, chuyển từ quan điểm
giáo dục dựa vào nội dung sang quan điểm dạy học phát triển năng lực đòi hỏi bản thân người giáo
viên phải có các năng lực sư phạm trong đó có năng lực tổ chức được và hiệu quả các hoạt động
giáo dục đạo đức.
2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo và phát triển năng lực tổ
chức hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm GDCD
2.2.1. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo
- Đổi mới nội dung, kết cấu của các học phần
Chương trình đào tạo giáo viên GDCD ở Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSP) Hà Nội và một
số trường ĐHSP khác đã được xây dựng trước khi có chủ trương đổi mới giáo dục theo định hướng
phát triển năng lực cho người học và trước khi Dự thảo chương trình GD phổ thông tổng thể ra đời.
Mặc dù đã có những chiến lược đón đầu đổi mới giáo dục những chương trình vẫn bộc lộ những
hạn chế. Chương trình cần được thiết kế lại dựa theo chuẩn đầu ra mới được căn cứ vào chuẩn đầu
ra của môn Đạo đức, GDCD và GD kinh tế pháp luật làm cơ sở xác định thời lượng, nội dung khối
kiến thức đạo đức và giáo dục đạo đức phù hợp đảm bảo cho SV ra trường đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn đặc biệt là khi chương trình GD phổ thông tổng thể mới được thông qua.
Căn cứ định hướng chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo khối ngành sư phạm được điều chỉnh,
cập nhật hàng năm đã thể hiện được sự gắn kết sản phẩm đầu ra với mô hình hoạt động nghề nghiệp
đặc trưng của người GV. Từng khối kiến thức được mô tả cụ thể những chuẩn cần đạt về kiến thức
và năng lực chuyên môn. Đồng thời chương trình còn mô tả các kĩ năng chuyên môn (kĩ năng nghề
nghiệp, kĩ năng tư duy và giải quyết vấn đề, kĩ năng nghiên cứu, khám phá kiến thức, kĩ năng đánh
giá bối cảnh xã hội, tổ chức, kĩ năng vận dụng sáng tạo các kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn nghề
nghiệp); kĩ năng bổ trợ (kĩ năng cá nhân, làm việc theo nhóm, quản lí, lãnh đạo, hoạt động xã hội,
giao tiếp và sử dụng ngoại ngữ, tin học) và các phẩm chất đạo đức. Ví dụ xác định mục tiêu theo
định hướng phát triển năng lực GV của học phần Đạo đức và giáo dục đạo đức.
Mục tiêu Mục tiêu theo định hướng phát triển năng lực GV
trong chương trình hiện hành
1. Kiến thức: Có được những kiến
thức cơ bản về đạo đức học, phương
pháp giáo dục đạo đức
1. Kiến thức: - Trình bày và phân tích được những nội dung cơ
bản đạo đức học: khái niệm, bản chất, đặc trưng, chức năng,
nhiệm vụ của đạo đức học, các phạm trù cơ bản của đạo đức
học.
- Trình bày và giải thích được tầm quan trọng của việc giáo dục
đạo đức dân tộc, đạo đức cách mạng HCM, đạo đức trong xã hội
hiện đại và đạo đức nghề giáo viên.
- Nêu và giải thích được ý nghĩa của các nguyên tắc giáo dục đạo
đức.
- Trình bày được quy trình thực hiện một số hình thức, phương
pháp giáo dục đạo đức ở nhà trường phổ thông hiện nay, các hình
thức biện pháp kiểm tra, đánh giá hiệu quả giáo dục đạo đức.
228
Phát triển năng lực tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm...
2. Kĩ năng: Có kĩ năng tự trau dồi
đạo đức để không ngừng hoàn thiện
bản thân, nâng cao được khả năng
nhận thức, đánh giá và vận dụng
những kiến thức đã tiếp nhận được
vào thực tiễn xây dựng đạo đức
trong điều kiện hiện đại hoá xã hội
ở Việt Nam.
2. Kĩ năng: - Phân tích, đánh giá được những hành vi đạo đức
của bản thân và những người xung quanh trong cuộc sống hàng
ngày. - Xác định được những nội dung đạo đức cần giáo dục cho
một đối tượng học sinh cụ thể.
- Lập được kế hoạch giảng dạy, kế hoạch giáo dục đạo đức cũng
như xác định được các nguồn lực phối hợp và hỗ trợ để nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông.
- Xây dựng được một số công cụ đánh giá hiệu quả của công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Giải quyết được những tình huống có liên quan đến đạo đức
của bản thân và của học sinh phổ thông.
3. Thái độ: Có ý thức tự rèn luyện
và nâng cao phẩm chất đạo đức của
người sinh viên sư phạm, không
ngừng phấn đấu, tu dưỡng để trở
thành người giáo viên tốt hoặc nhà
khoa học, nhà quản lí có tâm huyết
với sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước.
- Nỗ lực rèn luyện đạo đức bản thân đặc biệt là đạo đức nghề
giáo viên.
- Có trách nhiệm trong nghiên cứu, tìm tòi những cách thức, biện
pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục môn đạo đức khi trở thành
người giáo viên tương lai.
Theo Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới nhất nội dung môn GDCD
được phân chia theo hai giai đoạn và gồm 6 mạch nội dung. Giai đoạn giáo dục cơ bản: môn Đạo
đức ở tiểu học, Giáo dục công dân ở trung học cơ sở là những môn học bắt buộc giáo dục đạo
đức, pháp luật, giá trị sống, kĩ năng sống. Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp. Ở trung
học phổ thông, nội dung giáo dục công dân tập trung vào giáo dục kinh tế và pháp luật. Như vậy,
các học phần có liên quan tới giáo dục đạo đức cần chiếm khoảng 1/6 trong tổng số thời lượng các
học phần thuộc khối kiến thức chung và kiến thức chuyên ngành tức khoảng 12 -13 tín chỉ. Tỉ lệ lí
thuyết – thực hành của các học phần này cần thay đổi là 50 – 50 thay vì 80 – 20 như hiện nay để
đảm bảo SV không những có được kiến thức đạo đức, giáo dục đạo đức mà còn được thực hành
ngay trong quá trình học tập. Hiện nay thực hành trong quá trình học mới chỉ dừng lại ở việc thực
hành