Tóm tắt
Cúng chúng sinh là một trong những phong tục tiêu biểu của người Việt Nam chứa đựng trong đó nhiều
nét đẹp văn hóa mang tính nhân văn rõ nét. Cho rằng tháng Bảy là tháng “cô hồn”, là thời điểm tất cả
các cô hồn được trở về nhân giới trong đó có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian này, ở nhiều nơi đều
làm mâm cỗ cúng thí cho chúng sinh khắp nơi. Xưa nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tục
cúng chúng sinh vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung mà
quên mất một điều rằng mỗi địa phương khi tiếp nhận lại có một quan niệm và cách cúng khác nhau.
Trong báo cáo này, ngoài việc tìm hiểu về việc cúng chúng sinh chung của dân gian, chúng tôi còn tìm
hiểu phong tục này ở một địa phương cụ thể để thấy được cái hay, cái đẹp, cái tâm, tình tương thân
tương ái của con người Việt Nam khi tiến hành nghi lễ.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ văn hóa địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016
97
Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ
văn hóa địa phương
Worship beings through the local cultural perspective
SV. Quảng Văn Hoàng
TS. Nguyễn Thị Việt Hằng
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
ST. Quang Van Hoang,
Ph.D. Nguyen Thi Viet Hang
Ha Noi Pedagogical University No2
Tóm tắt
Cúng chúng sinh là một trong những phong tục tiêu biểu của người Việt Nam chứa đựng trong đó nhiều
nét đẹp văn hóa mang tính nhân văn rõ nét. Cho rằng tháng Bảy là tháng “cô hồn”, là thời điểm tất cả
các cô hồn được trở về nhân giới trong đó có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian này, ở nhiều nơi đều
làm mâm cỗ cúng thí cho chúng sinh khắp nơi. Xưa nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tục
cúng chúng sinh vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung mà
quên mất một điều rằng mỗi địa phương khi tiếp nhận lại có một quan niệm và cách cúng khác nhau.
Trong báo cáo này, ngoài việc tìm hiểu về việc cúng chúng sinh chung của dân gian, chúng tôi còn tìm
hiểu phong tục này ở một địa phương cụ thể để thấy được cái hay, cái đẹp, cái tâm, tình tương thân
tương ái của con người Việt Nam khi tiến hành nghi lễ.
Từ khóa: phong tục, chúng sinh, văn hóa địa phương
Abstract
Worshiping beings is one of the typical customs of Vietnam, and it contains cultural beauty with rich
humanities. It is said that July - the month of "ghosts" is the time when all its wandering souls return to
the world in which there are so many hungry ghosts so that people offer trays born in many places.
From the past to present, there has been many researchers learnt about worshiping beings customs in the
middle (full moon) of July, but almost all have just recognized in a general way but forgot one thing that
each locality has a concept and a different way of offering. In this report, in addition to learning about
the offerings of the common folks, we also learn this customs in a particular locality to identify the
good, the beauty, the mind, and the Vietnamese’s solidarity when conducting rituals.
Keywords: customs, beings, local culture...
1. Đặt vấn đề
Cùng với hôn nhân, tang ma và lễ tết,
lễ hội, cúng chúng sinh là một trong những
phong tục tiêu biểu của người Việt Nam
chứa đựng trong đó nhiều nét đẹp văn hóa
mang tính nhân văn rõ nét. Dân gian ta
98
quan niệm, “cô hồn” là những vong hồn bị
chết uổng, chết oan và khi về âm giới thì
không nơi nào tiếp nhận, không người đơm
cúng ngày tuần tiết, sóc vọng. Cũng theo
dân gian ta, ngày tết cô hồn bắt đầu từ ngày
1/7 âm lịch hàng năm và kéo dài đến hết
tháng. Nhưng từ bao đời nay, nhân dân đã
lấy ngày Rằm tháng Bảy âm lịch làm ngày
chính để khao giải và phổ độ cho các cô
hồn và ngày này trùng với Lễ Vu Lan báo
hiếu của Phật Giáo nên nhiều người lầm
tưởng hai lễ này là một. Cho rằng tháng
Bảy là tháng “cô hồn”, là thời điểm tất cả
các cô hồn được trở về nhân giới trong đó
có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian
này, ở nhiều nơi đều làm mâm cỗ cúng cho
chúng sinh khắp nơi để cầu giải thoát cho
họ và tránh để họ quấy nhiễu. Điều này
không chỉ thể hiện nét văn hóa tâm linh đặc
sắc của người Việt mà con thể hiện một
văn hóa ứng xử đối với người ở thế giới
bên kia. Tiếp thu tinh thần ấy của dân gian,
nhìn nhận từ góc độ văn hóa, chúng tôi đi
tìm hiểu phong tục cúng chúng sinh của
dân gian để thấy được cái tâm, cái tình, cái
đức của người Việt Nam thể hiện qua hành
động làm phúc của mình.
Cúng chúng sinh là một mỹ tục được
hình thành từ xa xưa, phát triển cho đến
ngày nay và chắc chắn sẽ còn tồn tại mãi
về sau trong văn hóa Việt Nam. Đề cập đến
vấn đề này, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu
tìm hiểu về tục cúng chúng sinh (cô hồn)
vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết
đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung
mà trên thực tế mỗi địa phương khi tiếp
nhận lại có một quan niệm và cách cúng
khác nhau chứ không hoàn toàn đồng nhất.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Phong
tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ
văn hóa địa phương” và tiến hành khảo sát
ở một địa phương cụ thể - vùng đất Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để từ đó cho thấy nét
riêng trong quan niệm của người dân nơi
đây, thấy được nét đẹp văn hóa tâm linh
thể hiện trong phong tục này.
2. Nội dung
2.1. Phong tục cúng chúng sinh trong
văn hóa truyền thống
Theo tín ngưỡng cổ truyền người ta
quan niệm “sống gửi, thác về” và cho rằng
con người có hai phần: Hồn và xác. Khi đã
mãn hạn trần gian con người trở về nơi vốn
là của họ (thế giới bên kia) và khi đó hồn
lìa khỏi xác, xác thì phân hủy còn hồn thì
tiếp tục tồn tại. Những người theo Phật
giáo và không theo tôn giáo nào cho rằng
hồn sẽ về Tây Phương cực lạc, người theo
Thiên chúa giáo cho rằng linh hồn sẽ lên
thiên đàng cùng Chúa trời. Những linh hồn
ấy sẽ sớm được siêu sinh tịnh độ đầu thai
làm kiếp này hay kiếp khác hay bị đày đọa
vào ngạ quỷ tùy thuộc vào những điều lành
hay dữ mà họ làm khi còn sống. Nếu khi
còn sống làm nhiều điều ác thì khi chết đi
sẽ bị đày đọa khổ cực hay những người
chết uổng chết oan bị bơ vơ nơi nọ nơi kia
không nơi nương tựa sẽ khó siêu thoát. Vì
lí do đó mà họ được gọi là các “cô hồn” vất
vưởng khắp mọi nơi, người trần gian
thương xót cho họ phải chịu cảnh “quanh
năm đói rét cơ hàn, không manh áo mỏng
che màn heo may” nên rằm tháng bảy hàng
năm làm lễ cầu siêu để cho họ được siêu
thoát và ngày ấy còn được gọi là “xá tội
vong nhân”.
Phong tục cúng cô hồn có nguồn gốc
từ Trung Quốc, Phật tử Trung Hoa gọi lễ
cúng này là “Phóng diệm khẩu”, tức là
cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ
đói miệng lửa. Nhưng dân gian thì hiểu
rộng ra và nói trại đi thành “cúng cô hồn”,
tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ,
không có ai là thân nhân trên trần gian
99
cúng bái.
Việc cúng chúng sinh (cúng cô hồn)
này có liên quan đến câu chuyện giữa A
Nan Đà Tôn giả (đệ tử của Phật Thích Ca
Mâu Ni) với một con quỷ miệng lửa (diệm
khẩu). “Một buổi tối, A Nan đang ngồi
trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ
thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả
ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày
sau, A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi
ngạ quỷ miệng lửa, mặt cháy đen như nó. A
Nan sợ quá bèn nhờ quỷ bày cho phương
cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày
mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi
mỗi đứa một hộc thức ăn, và soạn lễ cúng
dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ,
còn tôi sẽ được sinh về cõi trên”. A Nan
đem chuyện bạch với Ðức Phật, Đức Phật
bèn cho bài chú gọi là “Cứu bạt diệm khẩu
ngạ quỷ Ðà La Ni”. A Nan đem tụng trong
lễ cúng và được thêm phúc thọ”
Ở Trung Quốc, việc cúng cô hồn được
thực hiện vào ngày 14 tháng 7 âm lịch còn
ở Việt Nam, tháng 7 âm lịch được gọi là
“tháng cô hồn” và việc này được thực hiện
vào tất cả các ngày trong tháng và chủ yếu
là vào 15 tháng 7 âm lịch vì truyền thống
của người Việt cho rằng ngày này là “ngày
mở cửa ngục” để các cô hồn nhận đồ cúng
tế cũng như quần áo, vàng mã và được gọi
là ngày “xá tội vong nhân”. Ban đầu phong
tục này được người ta vẫn nói là “Phóng
diệm khẩu”, với nghĩa gốc là “thả quỷ
miệng lửa”, về sau lại được hiểu rộng thành
các nghĩa khác như tha tội cho tất cả những
người chết (xá tội vong nhân) hoặc cúng thí
cho những vong hồn vật vờ (cô hồn) không
nơi nương tựa. Trong những ngày này,
người dân thường lập đàn cầu siêu hoặc
cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn để
mong họ phù hộ cho mình, cầu cho gia
trung hưng thịnh, đời đời hoan hân.
2.2. Dấu ấn của phong tục cúng
chúng sinh trong các sáng tác văn học
Nghi thức cúng chúng sinh vốn đã tồn
tại ở nước ta từ rất sớm. Theo Nguyễn
Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì
từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn,
Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế
phổ độ chúng sinh, cầu giải thoát cho các
oan hồn và trong các chùa Việt lưu truyền
sách Bảo Đỉnh hành trì tập hợp khoa nghi
bí mật nội truyền do Huyền Quang tổ sư
soạn thảo cũng đã phần nào nói lên việc
thịnh hành nghi thức Phật giáo. Hơn thế,
các bộ sách sử như Đại Việt sử lược, Đại
Việt sử kí toàn thư... đều ghi chép đời Trần
nước ta đã xin vua Tống Đại tạng kinh,
điều này phần nào nói lên “Nghi quỹ thí
thực” đã hình thành, phát triển và tồn tại ở
nước ta từ rất sớm chứ không phải đến
ngày nay nghi thức này mới phổ biến.
Phong tục cúng chúng sinh tồn tại,
phát triển sâu rộng trong dân gian và trở
thành một thói quen in sâu trong tâm thức
của người dân Việt, trở thành một nét đẹp
tâm linh không thể thiếu thể hiện tính nhân
văn, nhân đạo sâu sắc. Văn học trung đại
Việt Nam từng có Thập Giới cô hồn Quốc
Ngữ Văn (mười điều răn cô hồn viết bằng
quốc ngữ) của Lê Thánh Tông. Tác phẩm
được viết bằng chữ Nôm theo thể biền
ngẫu, được chép trong bộ Thiên Nam dư hạ
tập gồm 11 đoạn, trừ đoạn mở đầu, 10
đoạn sau, mỗi đoạn là một điều răn một
loại cô hồn: thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu,
nho sĩ, thiên văn - địa lí, lương y, tướng
quân, hoa nương, thương cổ, đãng tử, và
kết thúc mỗi đoạn là một bài kệ bằng thơ.
Với mục đích giáo huấn, mượn lời răn
người chết (cô hồn) để dạy người sống và
qua việc răn giới, tác phẩm đã phản ánh
sinh hoạt của 10 hạng người, vị trí xã hội
của họ và thái độ đánh giá đối với họ, quan
100
điểm khen chê chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn
của đạo đức phong kiến, lợi ích của chế độ
phong kiến; được đề cao nhất là quan liêu,
nho sĩ, tướng quân; bị miệt thị là thương
cổ, hoa nương, đãng tử. Bút pháp vững
vàng, kết cấu chặt chẽ, đối ngẫu thoả đáng,
từ ngữ chính xác, tinh tế, hình tượng sắc
sảo, sinh động; điển cố nhiều nhưng cách
dùng rất sáng tạo. Giọng văn hoạt bát, hài
hước, chân dung văn học được khắc hoạ
hiện thực, cụ thể, độc đáo và sinh động.
Thế kỷ XVIII Nguyễn Du viết Văn tế
thập loại chúng sinh , đây là minh chứng
Phật giáo kết hợp với niềm tin tâm linh của
dân gian gắn với đạo tràng, cầu siêu và hội
tụ đầy đủ tinh thần nhân văn, nhân đạo của
Đại thi hào Nguyễn Du mà rộng hơn là của
cả dân tộc. Bản văn tế được tìm thấy lần
đầu tiên ở Chùa Diệc - Hà Tĩnh, “nói lên
rằng, sáng tác Văn tế thập loại chúng sinh
trước hết nhằm mục đích cúng tế”, nó được
xem là một bản văn khấn cúng chuẩn của
Phật giáo được lưu giữ ở nhiều ngôi chùa
trên toàn quốc, được in trong Văn khấn
Nôm truyền thống và được sử dụng rộng
rãi trong mỗi dịp Rằm tháng bảy. Nếu bài
văn của vua Lê nặng nề giáo huấn răn đe
thì tác phẩm của Nguyễn Du tràn ngập tình
yêu thương, thông cảm.
Bài Văn tế thập loại chúng sinh bao
gồm 184 câu, chia ra làm ba phần chính:
Phần đầu giới thiệu cảnh não nề của tháng
bảy mưa dầm sùi sụt, cảnh lặng lẽ man
mác, buồn thương...; Phần thứ hai nói rõ
mười loại cô hồn, đây là phần chính của bài
văn; Phần cuối kết luận, mở hướng cho con
người đi vào con đường lương thiện, theo
cầu đạo Phật từ bi để không sa đọa vào cô
hồn quỷ đói. Cả ba phần đều với giọng văn
thê lương, vạch hướng con người đi vào
con đường từ bi lương thiện để thoát khỏi
cảnh tai ương khổ ải của kiếp nhân quả luân
hồi. Bài văn đã miêu tả cảnh khổ đau của
mọi hạng người trong xã hội từ giàu sang
cho đến đớn hèn, từ những người mũ cao
áo rộng cho đến những người hành khất
ngược xuôi Con người khi sống trong xã
hội thì phân biệt sang hèn, kẻ hiền người
ngu nhưng khi chết đi thì đều được bình
đẳng, nhất là “thác đi làm kiếp cô hồn -
lênh đênh mặt nước, đầu non dãi dầu -
chẳng biết ăn đâu, ở đâu - đêm thẳm ngày
sầu hè lại sang đông”, chúng sinh tuy mỗi
người mỗi nghiệp khác nhau nhưng tựu
trung đều bi thảm giống nhau. Qua khảo
sát, chúng tôi thấy được có 16 loại chúng
sinh được Nguyễn Du nhắc tới trong văn tế,
tuy sống thì mỗi người một nghiệp, người
bài binh bố trận, kẻ hành khất lang thang,
người thì “rắp cầu chữ quý” kẻ thì vào sông
ra bể, người thì “liều tuổi xuân buôn nguyệt
bán hoa”, và cả những đứa trẻ “lỗi giờ sinh
lìa mẹ lìa cha” nhưng khi thác đi tất cả họ
đều “hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê
người” không ai đơm cúng, phải ăn mày
Phật, cậy nhờ “hớp cháo lá đa”. Cảm
thương cho số phận đói rét của các cô hồn,
nhãn quan nhìn thấu từ trần gian cho đến
âm phủ, Nguyễn Du đã lập đàn giải thoát,
sửa sang manh áo thoi vàng nhờ vào phép
thần thông của Phật kêu gọi các chúng sinh
lắng nghe kinh để được siêu thoát khỏi
trong luân hồi, lục đạo. Bản văn tế có nhiều
đoạn kể về nỗi đói rét của các cô hồn khiến
cho nhiều người khi đọc cũng phải sụt sùi
cảm thương:
“Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người”
Hay:
“Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
101
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?...
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan”
Nguyễn Du đã nói lên nỗi thương xót
các cô hồn bơ vơ bằng tất cả tấm lòng nhân
ái, nhân đạo của mình. Thương cho các cô
hồn lạc loài, “anh em thiên hạ, láng giềng
người dưng”, những cô hồn “sống nhờ hàng
xứ, chết vùi đường quan” Tất cả họ đều
bơ vơ không chốn tựa nương, không manh
áo mỏng, không người đơm cúng, không ai
tảo mộ. Lập đàn giải thoát, thí thực cho
chúng sinh, cuối cùng kêu gọi các loại cô
hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để
nương nhờ phép Phật mà thoát khổ, lấy
Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thoát trong
luân hồi. Văn tế thập loại chúng sinh là một
lời cảnh báo cho thế gian, đáng cho mọi
người suy ngẫm khi nó trùng với ngày Đức
Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa
Ngục để báo hiếu, Nguyễn Du không chỉ
khóc thương cho người đã khuất mà còn
như nghẹn ngào tâm sự với người đang
sống, nói về quá khứ nhưng kỳ thực là đang
nhắc đến hiện tại và nhìn về tương lai, nhắc
nhở con người ta hãy bừng tỉnh, thoát khỏi
vòng mê đắm của phú quý vinh hoa.
Từ những truyền thống văn hóa có từ
xa xưa, hình thành và phát triển qua bao
thời đại, đi cùng những biến cố thăng trầm
của thời gian, của lịch sử, phong tục cúng
chúng sinh ngày càng được mở rộng trong
dân gian, đặc biệt là trong thời đại kinh tế
đang phát triển. Sở dĩ cúng chúng sinh
được hình thành sớm và gìn giữ lâu đời
như vậy mà không bị mai một bởi văn hóa
Việt Nam là loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp, văn hóa làng xã, trọng tình, sự yêu
thương, tình nhân ái, tính nhân văn, nhân
đạo luôn được đặt lên hàng đầu. Tính nhân
văn, nhân đạo không chỉ được thể hiện ở sự
đùm bọc, giúp đỡ những người nghèo khổ
khi đang còn sống mà còn hướng tới cả
những người đã mất mà không nơi tựa
nương, sống thì phải chịu một đời phiền
não khi thác đi lại “nhờ hớp cháo lá đa”.
Hình ảnh “hớp cháo lá đa” đã trở nên rất
quen thuộc trong các buổi lễ cũng như
trong các bài văn tế chúng sinh, vừa thể
hiện sự từ bi của Phật, vừa thể hiện sự cảm
thông, chia sẻ, lòng nhân đạo của người
sắm lễ vật cúng dường lại vừa thể hiện
trong đó sự thương xót của người hành lễ.
Chỉ là hớp cháo lá đa, một chút cháo để
cứu cơ tạm thời, của ít nhưng lòng nhiều,
các cô hồn đều vui lòng nhận để được vui
lòng ấm bụng, để nghe kinh, để thấu hiểu
được rằng: dù tội hay dù oan thì cũng
chẳng phàn nàn bởi số trời đã định, các cô
hồn hay nghe lời Phật dạy mà được “đắc
độ, đắc siêu về nơi tiên cảnh” hoặc được
đầu thai vào kiếp người sung túc hơn.
Trên thực tế, ngoài Thập Giới cô hồn
Quốc ngữ văn của Vua Lê Thánh Tông,
khoa cúng Mông sơn thí thực của Phật
giáo, Văn tế thập loại chúng sinh của
Nguyễn Du thì trong dân gian vẫn tồn tại
những bản khác được sử dụng rộng rãi để
cầu giải thoát cho chúng sinh vào mỗi dịp
Rằm tháng bảy âm lịch. Riêng phần về các
bản văn cúng chúng sinh, chúng tôi sẽ làm
rõ ở phần sau.
2.3. Phong tục cúng chúng sinh ở xã
Hồng Phương - Yên Lạc - Vĩnh Phúc
2.3.1. Những nét chung với quan niệm
dân gian
Như đã nói ở trên, nếu một người bị
chết oan hoặc do tác động của những
102
nghiệp xấu, các cô hồn không/chưa được
cõi nào tiếp nhận, phải lang thang, chịu đói
rét, hoặc quấy rối người sống. Vì vậy, cúng
chúng sinh là để "cứu giúp" những linh hồn
khốn khổ, hoặc nhằm "hối lộ" để khỏi bị
các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ "hỗ
trợ", phù hộ.
Đồ cúng chúng sinh luôn có hương,
hoa, đèn (nến), quần áo chúng sinh, tiền
vàng, gạo, muối, nước lã kèm theo các món
ăn và một thứ không thể thiếu trong
mâm lễ cúng chúng sinh là cháo loãng. Sở
dĩ cháo loãng không thể thiếu là bởi dân
gian cho rằng những linh hồn bị đày đọa
phải mang một thực quản nhỏ hẹp không
thể nuốt được thức ăn thông thường. Nhìn
chung tất cả các đồ cúng đều là đồ chay vì
nếu cúng đồ mặn sẽ khơi dậy sự tham, sân,
si của chúng sinh, làm cho chúng sinh khó
siêu thoát. Thức cúng bằng đồ chay cũng
thể hiện trong đó quan niệm của Đạo Phật,
không đùng đồ mặn đồng nghĩa với việc
không sát sinh, không làm mất đi sự sống
của các loài, không làm gia tăng ác nghiệp
cho chúng sinh để chúng sinh chóng được
siêu thoát.
Để cúng chúng sinh thì người ta
thường cúng vào buổi chiều tối hoặc tối
hẳn vì buổi sáng, ánh nắng sẽ làm bạt, suy
yếu các vong linh hồn còn khi đến tối là
thời điểm các vong linh hồn được tích tụ
lại. Do đó, cúng buổi tối thì các cô hồn này
mới có thể dễ nhận nhận được đồ mà các
gia chủ cúng cho. Nơi cúng thường đặt ở
ngoài trời, có thể cúng ở cổng chứ không
nên để trong nhà bởi các cô hồn có thể ở lại
trong nhà không đi làm ảnh hưởng tới gia
đình, đặc biệt là đối với gia đình có trẻ nhỏ
hay có người yếu bóng vía sẽ dễ bị ma quỷ
đó trêu chọc. Nhiều gia đình không muốn
cúng chúng sinh ở nhà thì có thể cúng ở
chùa làm phúc, nhờ các nhà sư phổ độ cho
chúng sinh, răn dạy chúng sinh.
2.3.2. Nét riêng của phong tục cúng
chúng sinh của địa phương
Bên cạnh những nét chung của dân
gian, mỗi địa phương lại có những quan
niệm riêng của mình về tục cúng chúng
sinh và từ đó bên cạnh những gì theo quan
niệm của dân gian, họ có những cách sắm
lễ và cách thức cúng riêng của mình mang
đặc trưng bản xứ. Chúng tôi tìm đến gặp
Cụ Đỗ Thị Vinh 87 tuổi, ngụ tại thôn
Trung Nha, xã Hồng Phương, huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, một Cụ làm thủ
nhang Chùa Am Tự trên địa bàn dân cư nơi
đây gần 20 năm để tìm hiểu về phong tục
cúng chúng sinh của người dân nơi đây và
thấy được rằng cách hành lễ nơi đây có
nhiều nét đặc biệt mà các địa phương khác
ít có được.
Theo Cụ, có hai thứ không thể thiếu
trong lễ vật cúng chúng sinh không thể
thiếu đó là đồ mã và đồ ăn để “thí thực”
cho chúng sinh. Nếu như trên cả nước đồ
mã cúng chúng sinh thường chỉ là quần áo
và chút tiền vàng thì đồ cúng nơi đây lại có
những sự khác biệt, có sự mở rộng hơn,
phong phú hơn mang tính quan niệm .
Đồ mã cúng chúng sinh của địa
phương gồm: 1 mũ Phật, 3 mũ Hành khiến
(của Quan hành khiến cai quản trong năm),
5 bộ ngựa (xanh, đỏ, trằng, vàng, tím) kèm
theo đó là 5 bộ mũ, áo, hia đặc trưng cho
Ngũ phương (trung ương, đông, tây, nam,
bắc), một mũ tai đen (của Tiêu Diện Đại
vương) và quần áo chúng sinh, tiền vàng
tùy tâm gia chủ. Đồ cúng tế cũng thoái mái
hơn so với quan niệm của dân gian, một
nồi cháo loãng, gạo muối, bánh kẹo, hoa
quả, nước, xôi, chè và có thêm đồ mặn (thịt
gà, thịt lợn), rượu... Đồ cúng chúng sinh ở
đây có thêm đồ mặn bởi người dân ở đây
cho rằng chúng sinh cũng giống như
103
những người đang sống, cũng phải có
rượu, thịt để ăn uống, không phân biệt giàu
sang, các chúng sinh về bản đàn được
quyền bình đẳng. Riêng chỉ có quần áo
chúng sinh chỉ có một cỡ là bởi quần áo
này dùng cho tất cả mọi