Quan điểm canh tân về văn hóa, giáo dục cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam – Nội dung cơ bản và giá trị lịch sử trong giai đoạn hiện nay

TÓM TẮT Cả thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, khuynh hướng cải cách xuất hiện ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một thành tựu lớn của tư duy Việt Nam. Những quan điểm canh tân về văn hóa, giáo dục trong giai đoạn này đã phản ánh rõ sự vận động tất yếu của lịch sử, phù hợp với quy luật khách quan, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển của phong trào dân tộc sau này. Từ việc đi vào phân tích và làm rõ nội dung cơ bản quan điểm canh tân về văn hóa, giáo dục của các chí sĩ yêu nước tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, bài viết đã chỉ ra những giá trị lịch sử của quan điểm canh tân về văn hóa, giáo dục giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan điểm canh tân về văn hóa, giáo dục cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam – Nội dung cơ bản và giá trị lịch sử trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
123 Quan điểm canh tân về... QUAN ĐIỂM CANH TÂN VỀ VĔN HÓA, GIÁO DỤC CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX Ở VIỆT NAM – NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trần Mai Ước*, Trần Thị Hoa** TÓM TẮT Cả thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, khuynh hướng cải cách xuất hiện ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một thành tựu lớn của tư duy Việt Nam. Những quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục trong giai đoạn này đã phản ánh rõ sự vận động tất yếu của lịch sử, phù hợp với quy luật khách quan, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển của phong trào dân tộc sau này. Từ việc đi vào phân tích và làm rõ nội dung cơ bản quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục của các chí sĩ yêu nước tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, bài viết đã chỉ ra những giá trị lịch sử của quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: canh tân; cải cách; vĕn hóa; giáo dục. TAN TAN’S POINT OF CULTURE AND EDUCATION IN THE LAST XIXIX- CENTURY CENTURY IN VIETNAM - BASIC CONTENT AND HISTORY IN THE CURRENT PERIOD ABSTRACT Reality and theory proved that the trend of reform appeared in Vietnam in the late nineteenth and early twentieth centuries which is a great achievement of Vietnamese ideology. Innovative views on culture and education in this period clearly reflect the inevitable movements of history which creates a basic premise for the development of the national movements. Based on analysis and clarifying the basic content of the renewal viewpoint on culture and education of the typical patriots in the late nineteenth and early twentieth centuries in Vietnam, this article points out the historical values of cultural and educational reform perspective in the late nineteenth and early twentieth centuries in Vietnam. Keyword: innovative, reform, culture, education * PGS.TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh ** Trường Đại học Trần Đại Nghĩa, Bộ Quốc phòng 1. DẪN NHẬP Canh tân là một trào lưu nổi bật và để lại dấu ấn đặc biệt sâu sắc trong lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nội dung của tư tưởng canh tân giai đoạn này đề cập đến nhiều vấn đề ở nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, vĕn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao Song đáng chú ý là quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục của các nhà canh tân tiêu biểu như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Ở phương diện này, các nhà canh tân chủ trương sửa đổi phong tục tập quán, tuyên truyền cổ động bài bác “hủ nho”, thực hiện các phong tục “Thái tây”, dùng chữ quốc ngữ, xây dựng một nếp sống vĕn minh trong cách ĕn, mặc, ở, và chủ trương học “thực dụng”, chú trọng đào tạo người tài, coi trọng khoa học kỹ thuật, nội dung giáo dục bám sát thực tiễn... Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam 124 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đang bước vào thời kỳ mới, trong bối cảnh thời đại có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Đó là, vấn đề toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập quốc tế như một xu thế tất yếu. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu những quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước của dân tộc ta hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái quát về điều kiện lịch sử - xã hội hình thành quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự xâm lược của thực dân Pháp đã biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa, nửa phong kiến. Đặc biệt, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã tác động trực tiếp đến mọi mặt trong đời sống xã hội Việt Nam, trong đó phải kể đến vĕn hóa, giáo dục. Dưới chiêu bài “khai hóa”, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” về giáo dục, “nô dịch” về vĕn hóa và “đầu độc” về tư tưởng đối với toàn thể dân tộc Việt Nam để dễ dàng cai trị. Trước hết về vĕn hóa, các quyền tự do ngôn luận và tự do xuất bản đều bị thực dân Pháp cấm đoán và kiểm duyệt gắt gao; mọi quan điểm, tư tưởng tiến bộ đều bị cấm đoán Mặc dù vậy, nền vĕn hóa phương Tây cùng với những tư tưởng tiến bộ như tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng ... có cơ hội du nhập, gây ảnh hưởng tích cực và khá sâu rộng trong đời sống tinh thần xã hội ở nước ta nhất là các trí thức yêu nước. Còn giáo dục, viên Thống sứ Bắc kỳ bộc lộ rõ chính sách giáo dục thực dân là: “Kinh nghiệm của các dân tộc châu Âu khác đã chỉ rõ rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại dột”1. Vì 1 Đinh Xuân Lâm, Phùng Hữu Phú, Lê Huy Tiêu và Trần Ngọc Vương. (1997). Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hà Nội: Chính trị quốc gia. tr.254 thế, thực dân Pháp tiếp tục duy trì nền giáo dục hủ lậu, vô bổ của Nho giáo, những phong tục tập quán lạc lậu, mê tín dị đoan. Tuy nhiên, để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa với quy mô, thực dân Pháp đã buộc phải mở một số trường dạy tiếng Pháp, vĕn hóa Pháp để đào tạo đội ngũ thông ngôn và những người phục vụ trong bộ máy chính quyền là chủ yếu. Nhờ đó tiếng Pháp, chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi và được đưa vào trường học để giảng dạy đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền vĕn minh phương Tây xâm nhập vào Việt Nam. Trong bối cảnh đó, một bộ phận trí thức yêu nước như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh nhận thấy vấn đề canh tân về vĕn hóa, giáo dục là một nhu cầu cấp thiết của đất nước trước những biến động lớn của thời đại. 2.2. Những nội dung cơ bản quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam Xuất phát từ thực trạng trình độ dân trí của nước ta, các nhà tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã phê phán nền học thuật cũ, chủ trương thực học, khuyến khích học tập sự tiến bộ của vĕn minh phương Tây Nguyễn Trường Tộ phê phán gay gắt nội dung và phương pháp của nền học thuật Nho học triều Nguyễn là chỉ học Kinh, Thư, chính sự bên Tàu mà không quan tâm đến các môn khoa học tự nhiên hay khoa học thực nghiệm: “Lúc nhỏ thì học vĕn, từ, thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, dịch, binh, hình. Lúc nhỏ nào học Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ nào học thiên vĕn, địa lý, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ sửa đổi khác trước hết rồi), lớn lên thì lại dùng đến địa lý, thiên vĕn, chính sự, phong tục của nước Nam”2. Về phương 2 Trương Bá Cần. (2002). Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo. Hồ Chí Minh: Tp. Hồ Chí Minh. tr.288 125 Quan điểm canh tân về... pháp, chủ yếu là nhớ các điển tích, điển cố, luận giải câu chữ: “từ trẻ đến già, từ trường công đến trường tư đua nhau trau chuốt từng câu hay, từng chữ khéo. Sao mà tệ mạt đến thế”1. Đặng Huy Trứ cũng phê phán gay gắt về cái học xa rời thực tiễn của Nho giáo: “Thiên vĕn, toán học ta đều chưa biết hết nên sao hiểu được cơ trời để sớm lo toan được cho dân Trải qua việc, mới biết tài học ta nông cạn. Vĕn chương có bao giờ chống nổi với gió bão”2. Phan Bội Châu cũng vậy, ông phê phán thực trạng giáo dục của nước ta lâu nay như sau: “Nước ta vài nghìn nĕm lại giờ quen nghe nết dã man, theo đường gian lậu; chính trị đã không ra gì còn nói nói gì đến giáo dục nữa. Gọi rằng giáo dục, chẳng qua là một đường khoa cử vĕn tử đó thôi. Không có thương học nên công nghiệp hỏng; không có nông học nên nhân dân không biết đường khai khẩn; không có pháp luật học, nên nhân dân không giữ lấy quyền lợi, đến nỗi vì ngu nên yếu, vì nhác nên nghèo, nước mới không nên nước”3. Đối với nền giáo dục mới mà thực dân Pháp thi hành sau này, Phan Bội Châu cho rằng đó chỉ là nền giáo dục có tính “nô dịch”: “chỉ làm cho người Việt Nam trở thành những con trâu, con ngựa cực kỳ ngoan ngoãn, những tên nô lệ mắt mù, tai điếc, chân tay tê liệt mà thôi”4. Trên cơ sở đó, các nhà tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và tính cấp thiết của việc cải cách giáo dục. Nguyễn Trường 1 Trương Bá Cần, 2002, Sđd, tr.289-290. 2 Đặng Hưng Dzoanh, Bùi Vĕn Côn và Phạm Tuấn Khanh. (1990). Đặng Huy Trứ - Con người và tác phẩm. Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh. tr.271 3 Phan Bội Châu. (2000). Toàn tập. Tập 7. Huế: Thuận Hóa - Trung tâm Vĕn hóa ngôn ngữ Đông Tây. tr.41 4 Phan Bội Châu. (2000). Toàn tập. Tập 5. Huế: Thuận Hóa - Trung tâm Vĕn hóa ngôn ngữ Đông Tây. tr.181 Tộ xác định: “việc chỉnh đốn học thuật là cái gốc lớn của quốc gia”5 và đặt nó trong Tám việc cần làm gấp. Còn Phan Bội Châu cũng khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc làm cho nước giàu mạnh: “Phàm người trong một nước mà giàu mạnh được có thể cùng thế giới tranh đua, giành sự sống còn, tất phải lấy giáo dục làm cơ sở”6. Phan Châu Trinh xem giáo dục là phương tiện để giải phóng dân tộc: “không mở mang dân trí, không để dân giàu thì không có con đường nào để đạt được mục đích tự trị”7. Do đó, các nhà canh tân Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã đưa ra nhiều chủ trương biện pháp để phát triển giáo dục theo hướng thực dụng. Nguyễn Trường Tộ đề xướng việc học thuật theo hướng thực dụng: “Cần phải tìm cái học thực dụng”8. Xuất phát từ mục đích học tập là: “học những điều chưa biết để mà đem ra thực hành. Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời sau nữa”9. Nguyễn Trường Tộ chủ trương khuyến khích việc học khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là công nghệ đóng tàu thủy: “việc đại thuyền và cơ khí muốn sang nước họ học tập chế tạo những thứ đó, theo tôi phải có những người khéo tay chọn lấy khoảng ba bốn mươi người thông minh chọn lấy mười người từ hai mươi lĕm tuổi trở lên, đi học đại số, vi phân cùng các môn trọng lực học, hóa học, quang học, v.v”10. Nguyễn Trường Tộ còn đề nghị triều đình có những biện pháp cụ thể để 5 Trương Bá Cần, 2002, Sđd tr.277 6 Phan Bội Châu. (2000d). Toàn tập. Tập 5. Huế: Thuận Hóa - Trung tâm Vĕn hóa ngôn ngữ Đông Tây. tr.279 7 Nguyễn Q. Thắng. (1992). Phan Châu Trinh cuộc đời và tác phẩm (1872 - 1926). Hà Nội: Vĕn học. tr.145 8 Trương Bá Cần, 2002, Sđd, tr.251 9 Trương Bá Cần, 2002, Sđd, tr.248 10 Trương Bá Cần, 2002, Sđd, tr.181 126 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nâng cao trình độ vĕn hóa của nhân dân như lập nhà in, xuất bản sách báo nhưng đồng thời cũng phải kiểm soát, hạn chế, cấm đoán các loại sách bùa chú, sấm vĩ, đoán định cơ trời để: “lòng người chú trọng vào cái học thiết thực cho những công việc hiện tại. Như thế mới có thể dần dần tiến tới chỗ tốt đẹp và ích lợi”1. Cùng quan điểm với Nguyễn Trường Tộ là Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch đều đưa ra nhiều đề nghị về việc học thực dụng. Ngay đầu nĕm 1865, Phạm Phú Thứ đã điều trần về việc chú trọng đào tạo người tài và khẳng định tầm quan trọng của việc học thực dụng: “Xin ban hành sách vở nước nhà để tìm kiếm thực học”2. Ông khẳng định chỉ có lối học thực dụng mới đào tạo được những nhân tài thực sự, không chỉ đáp ứng các yêu cầu của thực tế trước mắt mà còn để lại lợi ích cho tương lai. Từ đó, Phạm Phú Thứ chủ trương học tập phương Tây không chỉ là việc học tập ngôn ngữ, phong tục mà còn phải học tập khoa học kỹ thuật của họ để canh tân đất nước. Đặng Huy Trứ cũng cho rằng, cần phải đào tạo những con người có những hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực: “Lập cục dạy nghề, tuyển thiếu niên thông minh, rước người mời phương Tây đến dạy ngôn ngữ, vĕn tự, toán pháp, đồ họa để làm cơ sở cho việc chế tạo cơ khí đóng tàu thuyền”3. Nguyễn Lộ Trạch trong bản Thời vụ sách hạ nhấn mạnh việc học tập khoa học kỹ thuật phương Tây: “nhiệm vụ cấp bách hiện nay, cố nhiên không thể chậm trễ việc học kỹ thuật được”4. Còn Phan Bội Châu chủ trương phát 1 Trương Bá Cần, 2002, Sđd, tr.299 2 Phạm Ngô Minh, Chương Thâu, Nguyễn Kim Nhị, Phạm Phú Viết và Trần Phước Tuấn. (2014b). Phạm Phú Thứ toàn tập. Tập 2. Đà Nẵng: Đà Nẵng. tr.32 3 Đặng Hưng Dzoanh, Bùi Vĕn Côn và Phạm Tuấn Khánh, 1990, Sđd tr.436 4 Mai Cao Chương và Đoàn Lê Giang. (1995). Nguyễn Lộ Trạch điều trần và thơ vĕn. Hồ Chí Minh: Khoa học xã hội. tr.133 triển các trường dạy nghề: “Các trường học bách công đầy khắp nước, thợ tìm mỏ, thợ nấu vàng, thợ đúc súng, thợ chế tạo máy móc, thợ sản xuất hàng hóa để buôn bán, thợ tôi rèn dụng cụ để cày cấy; thợ vẽ khéo, thợ may giỏi, cho đến trĕm vật gì cũng có thợ cả”5; có chính sách khuyến khích việc học tập ở nước ngoài: “cấp học bổng xuất dương du học thật hậu để giúp đào tạo người tài cho đất nước thành công”6. Để nâng cao trình độ vĕn hóa của người dân, Phan Bội Châu cho rằng tự do ngôn luận, tự do xuất bản báo chí, hội họp là một yêu cầu bức thiết trong phong trào dân chủ thời bấy giờ: “Cửa tự do rộng mở, báo chí tràn đường, tân thư đầy ngõ, đơn từ kiện cáo, bút lưỡi hùng đàm, luận bàn đủ việc nội trị ngoại giao”7. Đối với chí sĩ Phan Châu Trinh, ngoài việc chủ trương “khai dân trí”, tiến hành đổi mới về nội dung giáo dục, học các môn khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên theo hướng thực nghiệp, Phan Châu Trinh còn cho rằng việc tiếp thu vĕn hóa cần có sự chọn lọc, tránh làm mất đi bản sắc vĕn hóa truyền thống của dân tộc, chẳng hạn như việc học tiếng Pháp: “Sử dụng ngôn ngữ của nước khác đã lạm dụng sức mạnh của họ thì họ sẽ bắt các anh phải quỳ gối cúi đầu dưới cái ách của họ. Xưa người ta bắt chúng ta học chữ Nho thì nay người ta bắt chúng ta học chữ Pháp!”8. Ông chủ trương tiếp thu có chọn lọc trên cơ sở giữ gìn những giá trị truyền thống của ông cha để lại. Phan Châu Trinh viết: “Phàm đã là dân tộc sinh toàn trên hoàn vũ, đã có một cái lịch sử của dân tộc mình nghĩa là giữ gìn lấy 5 Phan Bội Châu. (2000). Toàn tập. Tập 2. Huế: Thuận Hóa - Trung tâm Vĕn hóa ngôn ngữ Đông Tây, tr.188 6 Phan Bội Châu. (2000). Toàn tập. Tập 5. Huế: Thuận Hóa - Trung tâm Vĕn hóa ngôn ngữ Đông Tây. tr.99. 7 Phan Bội Châu. (1990). Toàn tập. Tập 2. Huế: Thuận Hóa - Trung tâm Vĕn hóa ngôn ngữ Đông Tây. tr.257 8 Phan Châu Trinh. (2005c). Toàn tập. Tập 3. Đà Nẵng: Đà Nẵng. tr.191 127 Quan điểm canh tân về... những đức tính tốt mấy trĕm ngàn nĕm cha ông để lại, khiến cho nước nào, dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng”1. Bên cạnh đó, các nhà canh tân giai đoạn này cũng rất chú ý đến việc sửa đổi phong tục tập quán, tuyên truyền cổ động bài bác “hủ nho”, thực hiện các phong tục “Thái tây”, dùng chữ quốc ngữ, xây dựng một nếp sống vĕn minh... Tóm lại, về vĕn hóa, giáo dục, các nhà cải cách ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã đề ra những biện pháp cụ thể như chú trọng đào tạo người tài, coi trọng khoa học kỹ thuật, cải cách một số môn học, đưa những kiến thức khoa học tự nhiên, kỹ thuật, thiên vĕn, toán học, chính trị, lịch sử, địa lý, công kỹ nghệ, địa chất, pháp luật, ngoại ngữ, công nghiệp, nông nghiệp, vào chương trình giáo dục. Nội dung giáo dục phải bám sát tình hình thực tiễn đất nước, góp phần giải quyết những nhiệm vụ của đất nước trong công cuộc chống ngoại xâm và phát triển kinh tế quốc gia. Đồng thời, các nhà canh tân cũng có nhiều biện pháp để nâng cao trình độ vĕn hóa của người dân như lập nhà in, tự do xuất bản báo chí, sửa đổi phong tục tập quán 2.3. Giá trị lịch sử của quan điểm canh tân về vĕn hóa, giáo dục giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 2.3.1. Giá trị lịch sử của quan điểm canh tân về vĕn hóa giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Bối cảnh đổi mới, hội nhập hiện nay, Việt Nam đứng trước những thời cơ và thách thức rất lớn của thời đại. Do đó, bên cạnh việc chủ động hội nhập với thế giới, dân tộc Việt Nam phải giữ gìn và phát huy bản sắc vĕn hóa của dân tộc mình, chống lại khuynh hướng “đồng hóa”, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các nước tư bản chủ nghĩa. Thời đại ngày nay đã chứng minh rằng, vĕn hóa cùng các giá trị truyền thống của một dân tộc trở thành động lực, trở thành mục tiêu của sự phát triển nói chung và của sự phát 1 Phan Châu Trinh.(2005c). Sdd, Tập 3. tr.293 triển nội lực nói riêng đối với các quốc gia, dân tộc. Do đó, Đảng ta luôn xác định vĕn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới, luôn quán triệt đường lối xây dựng và phát triển nền vĕn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, luôn nhấn mạnh đến vị trí và vai trò động lực, nguồn lực nội sinh của vĕn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Vĕn kiện Hội nghị lần thứ nĕm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Vĕn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố vĕn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển”2. Do đó, chúng ta không chỉ giữ gìn và phát huy bản sắc vĕn hóa truyền thống của dân tộc mình mà còn phải biến những giá trị vĕn hóa nhân loại thành nguồn sức mạnh của dân tộc. Nghĩa là, phải tiếp thu có chọn lọc tinh hoa vĕn hóa, vĕn minh nhân loại để làm giàu kho tàng vĕn hóa dân tộc. Bằng cách đó, chúng ta dung nạp những yếu tố vĕn hóa tiến bộ và loại bỏ đi những yếu tố vĕn hóa lạc hậu, lỗi thời đang kìm hãm sự phát triển để tạo ra một diện mạo vĕn hóa mới, riêng có của Việt Nam. Chỉ có trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể giữ vững được độc lập, tự chủ và phát huy toàn bộ ý chí tự lực, tự cường của dân tộc đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước đi đến thắng lợi. 2.3.2. Giá trị lịch sử của quan điểm canh tân về giáo dục cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Quan điểm canh tân về giáo dục của các nhà cảc nhà canh tân tiêu biểu như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Vĕn kiện Hội nghị lần thứ nĕm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 55 128 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Việc khẳng định vai trò có ý nghĩa quyết định và tính cấp thiết của việc canh tân giáo dục cũng như chủ trương thực học và học tập khoa học kỹ thuật phương Tây không chỉ có giá trị trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mà còn có giá trị đối với công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta càng khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới cĕn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế là tất yếu nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước phù hợp với nhu cầu hội nhập. Do đó, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: “xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục đào tạo”1. Trong Vĕn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò của giáo dục cũng như tính cấp thiết của việc đổi mới giáo dục: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dâ