Quản lý tổng hợp vùng bờ Chương 5 Phân hệ kinh tế – xã hội sự đa dạng của các chức năng, lợi ích và xung đột

Giống như tất cảcác môi trường tựnhiên, dải ven biển và các hòn đảo nhỏ cung cấp một sốchức năng và quá trình thiết yếu đối với phúc lợi xã hội kinh tếcủa con người. Phúc lợi của người phụthuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào khảnăng sẵn có của hàng hóa và dịch vụmôi trường mà hệthống biển và ven bờcó thểcung cấp. Vì dải ven biển chính là khu vực chuyển tiếp hẹp giữa đất liền và biển cả, đặc trưng bởi hệsinh thái đa dạng nhưcác rạn san hô, rừng ngập mặn, bãi biển, cồn cát và các vùng đất ngập nước, nhiều chức năng được thực hiện trên một khu vực nhỏ. Sựtập trung các chức năng cùng với vịtrí không gian làm cho dải ven biển và đảo nhỏtrởthành địa điểm thu hút người dân tới sống tại các dải ven biển. Có thểdựbáo rằng khoảng 50 đến 70% dân sốsẽsống tại vùng ven biển. Tốc độphát triển kinh tế– xã hội của các vùng ven biển, cũng nhưmức tăng dân số ở đó là chưa từng có (WCC93,1994).

pdf15 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lý tổng hợp vùng bờ Chương 5 Phân hệ kinh tế – xã hội sự đa dạng của các chức năng, lợi ích và xung đột, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 5 PHÂN HỆ KINH TẾ – XÃ HỘI SỰ ĐA DẠNG CỦA CÁC CHỨC NĂNG, LỢI ÍCH VÀ XUNG ĐỘT 5.1 Giới thiệu Giống như tất cả các môi trường tự nhiên, dải ven biển và các hòn đảo nhỏ cung cấp một số chức năng và quá trình thiết yếu đối với phúc lợi xã hội kinh tế của con người. Phúc lợi của người phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào khả năng sẵn có của hàng hóa và dịch vụ môi trường mà hệ thống biển và ven bờ có thể cung cấp. Vì dải ven biển chính là khu vực chuyển tiếp hẹp giữa đất liền và biển cả, đặc trưng bởi hệ sinh thái đa dạng như các rạn san hô, rừng ngập mặn, bãi biển, cồn cát và các vùng đất ngập nước, nhiều chức năng được thực hiện trên một khu vực nhỏ. Sự tập trung các chức năng cùng với vị trí không gian làm cho dải ven biển và đảo nhỏ trở thành địa điểm thu hút người dân tới sống tại các dải ven biển. Có thể dự báo rằng khoảng 50 đến 70% dân số sẽ sống tại vùng ven biển. Tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của các vùng ven biển, cũng như mức tăng dân số ở đó là chưa từng có (WCC93,1994). Trong điều kiện chung, các chức năng môi trường (do De Groot (1992) định nghĩa là “Khả năng của môi trường tự nhiên cung cấp hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của con người một cách bền vững”, có thể phân thành các loại như chức năng điều chỉnh, chức năng sản xuất và sử dụng, và các chức năng thông tin (De Groot; Vellinga et al. 1994). Bảng 5.1 cho biết tổng quan của tất cả các chức năng môi trường theo các tài liệu. Ngoại trừ một số chức năng (chẳng hạn như bảo vệ chống lại ảnh hưởng có hại từ vũ trụ), các chức năng này đều liên quan đến dải ven biển và các đảo nhỏ. Việc đánh giá chức năng nào là quan trọng nhất đối với một dải ven biển phụ thuộc vào các đặc điểm sinh thái, hoàn cảnh kinh tế xã hội và các mục tiêu quản lý đối với khu vực đó. Theo dòng thời gian, dải ven biển ngày càng trở thành nơi phát triển không bền vững vì đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác bị sử dụng không có kế hoạch với mục tiêu mang lại lợi nhuận tối đa. Điều này đã dẫn đất đai và các hệ sinh thái với các chức năng cụ thể nào đó bị khai thác quá mức. Việc khai thác đó không chỉ làm cạn kiệt tài nguyên mà chức năng đó cung ứng mà còn làm cho các chức năng khác cũng không tránh khỏi thực trạng không thực hiện được chức năng của mình. Sự thực hiện các chức năng trong bất kỳ một hệ tự nhiên ven bờ nào cũng có thể được những thành viên khác nhau trong cộng đồng dân cư ven bờ đánh giá theo những cách khác nhau do các nguồn tài nguyên (bao gồm cả không gian và lớp nền) mà các chức năng này cung cấp được xem xét theo những quan điểm khác nhau. Mặc dù vậy, do các áp lực nội tại và bên ngoài, khi mà một hoặc nhiều chức năng không thể thực hiện được hết khả năng của nó thì có thể sẽ nảy sinh các xung đột. Ví dụ khi rừng ngập mặn bị ô nhiễm vượt quá khả năng lọc, hoặc bị chặt phá hoặc phát quang một cách vô tội vạ thì sẽ phải trả giá cho ngành thủy sản vì không có nơi cho cá sinh sản và 81 điều đó cũng đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến một bộ phận dân cư vốn sống bằng nghề ngư. Sự duy trì bền vững tất cả các chức năng có thể tạo ra lợi nhuận kinh tế cao hơn trong thời gian dài hơn. Bảng 5.1: Tổng quan về các chức năng của môi trường Các chức năng qui định Chức năng sử dụng và cung cấp * Bảo vệ tránh ảnh hưởng có hại tầm vĩ mô Tạo không gian và các lớp * Qui định cân bằng năng lượng vi mô và vĩ mô Môi trường sống và lập nghiệp cho con người * Qui định về thành phần hóa học của khí quyển Trồng cấy (Trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản) * Qui định về thành phần hóa học của biển Bảo toàn năng lượng * Qui định về khí hậu (toàn cầu và địa phương) bao gồm cả chu trình thủy văn Du lịch và giải trí và bảo vệ tự nhiên * Qui định về dòng chảy và phòng lũ (BV lưu vực) Sản xuất oxy * Nguồn nước lưu vực và nước hồi qui Nước (uống, tưới, công nghiệp …) * Chống xói mòn và bồi lắng Thức ăn và dinh dưỡng * Hình thành lớp thổ nhưỡng và bảo toàn độ phì Bảo vệ nguồn gen * Tích năng lượng mặt trời và tạo sinh khối Nguồn dược liệu * Dự trữ và tái sử dụng các chất hữu cơ Các sản phẩm sử dụng công nghiệp dệt * Dự trữ và tái sử dụng dinh dưỡng Các sản phẩm sử dụng trong công nghiệp và XD * Dự trữ và tái sử dụng nguồn thải của người Hóa sinh (không kể chất đốt và dược liệu) * Qui định về cơ chế kiểm soát sinh học Chất đốt và năng lượng * Bảo vệ sự di trú và sinh vật non Cỏ khô và chất dinh dưỡng * Bảo tồn đa dạng sinh học (gen) Nguồn trang trí Chức năng thông tin và giá trị nội tại của tự nhiên Thông tin thẩm mỹ Các thông tin về tôn giáo Thông tin lịch sử Cảm xúc về văn hóa nghệ thuật Các thông tin về khoa học và giáo dục Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phát triển bền vững. Một trong số đó phát biểu rằng phát triển bền vững dải ven biển và đảo nhỏ chỉ thực hiện được khi nó tạo cho hệ thống ven biển khả năng tự tổ chức, nghĩa là tự thực hiện tất cả các chức năng tiềm tàng mà không gây ra các ảnh hưởng bất lợi đối với các hệ tự nhiên hoặc người khác. Khai thác quá mức các nguồn tài nguyên, ô nhiễm, đô thị hóa v.v… có thể kiềm chế dẫn tới phá hủy các chức năng quan trọng đối với cung cấp tài nguyên ít được đánh giá về mặt tài chính, hoặc duy trì khả năng phục hồi của hệ ven biển trước những biến động ngoại lai. Ảnh hưởng của phát triển không bền vững có thể cuối cùng dẫn đến sự suy thoái các hệ tự nhiên, mà chính nó bảo vệ chúng ta khỏi ảnh hưởng của biển, môi trường sống của nhiều loài sinh vật và thức ăn cho con người và khiến nảy sinh nhiều nguy cơ lớn đối với sức khỏe cộng đồng. 82 5.2 Chức năng sử dụng trong hệ thống ven biển 5.2.1. Đặc điểm Nói chung các gianh giới trong hệ thống xã hội không trùng khớp với các gianh giới trong hệ thống tự nhiên. Các hoạt động ở phạm vi rộng hơn vùng bờ thường bị ảnh hưởng của chính vùng ven bờ đó. Ví dụ, việc tăng nhiễm mặn do xói mòn bờ biển có thể tác động đến các khu vực lớn hơn trong đất liền. Việc mất bãi biển vui chơi có thể tác động đến các hoạt động liên quan trong các khu vực lân cận. Không có sẵn các hướng dẫn hoặc tiêu chuẩn để xác định các gianh giới trong hệ thống xã hội. Chúng cần dựa trên nền tảng phân tích các hoạt động xã hội và kinh tế hiện tại và tương lai trong dải ven biển và khu vực đất liền như đã miêu tả trong các kế hoạch phát triển quốc gia và khu vực. Mục tiêu cơ bản của việc phát triển dải ven biển có thể miêu tả khái quát như là hỗ trợ và đẩy mạnh phúc lợi con người, điều này thường được đánh giá trong các khái niệm kinh tế như việc tạo ra các “sản phẩm”. Khái niệm sản phẩm sử dụng ở đây được hiểu là các dịch vụ và thành phẩm thỏa mãn nhu cầu của từng cá nhân trong xã hội. Các tiêu chí khác về lập kế hoạch phát triển cũng quan trọng. Ví dụ như phân phối thu nhập giữa các nhóm trong xã hội hay giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai và mức độ công việc. Tài nguyên thiên nhiên của dải ven biển được sử dụng, cùng với các yếu tố đầu vào khác như nhân công và vốn để tạo ra của cải và dịch vụ. Việc này đòi hỏi phải có các nguồn tài nguyên có thể tái tạo và không tái tạo được. Có thể tái tạo là hệ thống có khả năng tái tạo tài nguyên trong một khoảng thời gian hợp lí. Ví dụ như việc khôi phục số lượng cá hoặc sự phân huỷ của các chất thải hữu cơ. Không thể tái tạo nghĩa là hệ tự nhiên không thể tạo ra tài nguyên trong một khoảng thời gian ngắn như việc lấy khoáng sản từ đáy biển hay làm rối loạn đáy biển bằng cách nạo vét hay đổ rác thải xuống biển. Vấn đề quản lý dải ven biển thường nhằm giải quyết các xung đột về tài nguyên biển và lợi ích ở dải ven bờ. Nhu cầu về tài nguyên thường liên quan trực tiếp đến các hoạt động của người sử dụng như không gian cho hoạt động nông nghiệp, nhưng cơ sở hạ tầng cơ bản cũng có tác động ngược lại đến tài nguyên. Chẳng hạn chúng ta ngăn cửa ra của đầm phá, nghĩa là chặn sự giao lưu với biển thì cũng có nghĩa là mất đi môi trường nuôi dưỡng các loại cá biển của đầm phá. Tài nguyên dải ven biển bao gồm khoảng không, nước và đất. Trong phạm vi này, có thể phân biệt bốn loại tài nguyên chính như sau: - Không gian: Bao gồm không gian cho các hoạt động của người sử dụng như nông nghiệp, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản, công nghiệp, nhà ở, giải trí, v.v… Những tiêu chí 83 cơ bản để xác định rõ khả năng sẵn có của tài nguyên không gian là diện tích bề mặt, độ cao so với mực nước biển, chiều dài, chiều sâu (ví dụ như độ sâu cho tàu bè đi lại). - Tài nguyên khoáng sản Loại tài nguyên này bao gồm các vật liệu xây dựng (như cát, đá), dầu khí, quặng và nước, thậm chí cả không khí (theo chất lượng đặc biệt) - Tài nguyên sinh vật Các hệ động và thực vật được dùng làm nguồn cung cấp protein và hydratcacbon. - Khả năng hấp thụ hoặc lọc sạch. Trong 3 loại tài nguyên ven biển kể trên, không gian biểu hiện khả năng hấp thụ, chứa, phân huỷ, khuếch tán và chuyên chở các chất thải được coi như là kết quả các quá trình trong môi trường và (đối với phần lớn) các hoạt động của người sử dụng. Ví dụ về sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) được tạo ra tại dải ven biển được nêu trong bảng 5.2 Việc sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ sẽ ảnh hưởng tới hệ ven biển ví dụ như việc đánh bắt cá, thay đổi chất lượng nước hoặc môi trường sống của các loài động thực vật bị ảnh hưởng một cách lâu dài, nhưng đổ nguồn nước thải hoặc sự cố tràn dầu ảnh hưởng ngay tức thì đến hệ thống đó và có thể nhìn thấy ngay. Bảng 5.2: Ví dụ về hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở vùng ven biển Hàng hoá Từ tài nguyên có thể tái tạo Từ tài nguyên không thể tái tạo Cá có vây và các loại ốc, sò Năng lượng sóng và thuỷ triều Nước ngầm từ vùng cồn cát Lúa gạo từ hệ tưới tiêu theo thuỷ triều Dầu và khí đốt Khoáng chất, cát và sỏi Dịch vụ Từ tài nguyên có thể tái tạo Từ tài nguyên không thể tái tạo Khu vực vận tải biển dành cho hoạt động xa bờ, đường ống và cáp Xử lý các chất chưa có thể phân huỷ như các chất hữu cơ… Cơ sở hạ tầng cho giải trí như nơi tắm, bơi thuyền, nhào lặn… Xử lý các chất phân huỷ như chất thải phóng xạ, kim loại nặng, nhựa. Khu vực dành cho phát triển đô thị hải cảng. 84 5.2.2 Chức năng sử dụng Dải ven biển là khu vực có các hoạt động kinh tế xã hội lớn và là khu vực sản xuất lương thực chính. Dựa vào sự phân cấp của các chức năng khác nhau của người sử dụng có thể xác định các loại như sau: - Chức năng cơ bản, như sản xuất lương thực, cung cấp nước, cung cấp năng lượng - Chức năng xã hội, như nhà ở, giải trí - Chức năng kinh tế như vận tải, khai khoáng, phát triển công nghiệp - Chức năng công cộng như giao thông công cộng, quốc phòng, xử lý rác/ nước thải Tình hình hiện tại và tương lai phải được miêu tả dưới dạng không gian sử dụng cho các hoạt động khác nhau, sản phẩm và dịch vụ và các giá trị kinh tế và xã hội vốn có. Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu đang phát triển có thể sử dụng một cách có hiệu quả để phản ánh các dữ liệu đó. Việc sản xuất các sản phẩm và dịch vụ trực tiếp (doanh nghiệp tư nhân/ cơ quan nhà nước) và gián tiếp (cơ quan nhà nước) tạo ra lợi ích và chi phí cho người sử dụng hệ thống đó. Trước tiên, các loại sử dụng hệ ven bờ gồm có chủ thể nhà nước và tư nhân: Lĩnh vực tư nhân: - Các sản phẩm nông nghiệp và thủy hải sản - Các hoạt động công nghiệp, vận tải, khai khoáng, cấp nước và năng lượng - Các hoạt động buôn bán, nhà ở, vui chơi giải trí và vận tải Lĩnh vực công cộng: - Dịch vụ cấp nước và năng lượng, xử lý nước thải, nhà ở, giao thông công cộng, quốc phòng - Các nhóm lợi ích ở bậc cao hơn như vùng, quốc gia, quốc tế Các hệ thống sử dụng thường xung đột lẫn nhau. Ví dụ như đổ chất thải xung đột với đánh bắt cá và nuôi trồng thủy hải sản. Những xung đột này cần phải làm rõ để giúp điều chỉnh lợi ích của các nhóm sử dụng khác nhau. Việc đưa ra ưu tiên cần tiến hành trên cơ sở các tiêu chí kinh tế và các tiêu chí ít cụ thể hơn việc bảo tồn các giá trị tự nhiên, hoặc qua các quy chế của nhà nước (vì mục tiêu quân sự chẳng hạn). Phân tích chính sách sẽ không đưa ra các quyết định, song lại chỉ ra những ảnh hưởng lựa chọn đến mỗi nhóm sử dụng hệ thống và ở các cấp cao hơn, chẳng hạn như những ảnh hưởng đến thu nhập và việc làm đối với khu vực, quốc qia. Những phân tích này làm cho các nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra quyết định có cơ sở hơn. 5.3. Khía cạnh kinh tế xã hội 5.3.1. Các bên liên quan trong quản lý dải ven biển Một khi cần lập quy hoạch thì rất cần nhiều bên có thể tham gia vào việc quy hoạch tài nguyên, kể cả các bên tư nhân cũng như chính phủ. 85 Các cơ quan chính phủ phải tham gia vào quá trình lập kế hoạch, qui hoạch vì những lí do sau: - Nhiều nguồn tài nguyên là tài sản công cộng. Việc cung cấp một số sản phẩm hay dịch vụ nào đó chẳng hạn như việc khai thác tài nguyên của một khu bảo tồn tự nhiên về nguyên tắc là dành cho tất cả mọi người. Nhưng làm như vậy có thể dẫn tới việc cạn kiệt tài nguyên nếu xảy ra trường hợp đánh bắt cá quá nhiều hoặc có quá nhiều áp lực đối với khu bảo tồn tự nhiên đó. - Hầu hết việc sử dụng các nguồn tài nguyên sẽ có tác động bất lợi đến các mục đích sử dụng khác và sẽ dẫn đến kết quả không tối ưu nếu ta không tính đến những tác động này. Một ví dụ về “tác động ngoại lai” là việc đổ rác thải xuống biển, việc làm này sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nghề cá và các hoạt động giải trí. Sự can thiệp của Chính phủ nói chung là rất cần thiết để giảm bớt hoặc loại bỏ những tác động ngoại lai như vậy. - Một số sản phẩm đầu ra của hệ thống khó có thể “định giá thị trường” được, ví dụ như môi trường trong sạch chẳng hạn. Rất có xác định việc “sẵn sàng chi trả” cho những sản phẩm đầu ra ấy. Xã hội chỉ có thể xác định người ta sẵn sàng chi trả bao nhiêu cho “nhu cầu chính đáng” đó thông qua quá trình quản lý của nhà nước. Điều này cũng đúng đối với việc cung cấp các “nhu cầu cơ bản của con người” (như uống nước sạch) cho những người không thể chi trả cho các nhu cầu của họ. - Đầu ra của hệ thống có thể bổ trợ nhau, ví như việc sử dụng không gian cho nghề cá và hoạt động khai khoáng. Việc này nói chung cần có sự can thiệp của chính phủ nhằm đạt được sự bình đẳng trong việc phân phối dịch vụ và sản phẩm. Nhiều cấp chính quyền sẽ tham gia vào quá trình ra quyết định. Ở cấp quốc gia, rất nhiều bộ sẽ tham gia vào quá trình này (Bộ Thủy sản, khai mỏ, giao thông vận tải, môi trường,…). Các cơ quan ở các cấp thấp hơn cũng sẽ tham gia như các cơ quan cấp tỉnh, địa phương, các ban và thành phố liên quan đến nước khu vực có cùng lợi ích trong việc phát triển dải ven bờ. Điều này có nghĩa là cơ cấu ra quyết định rất phức tạp vì những cơ quan này sẽ không muốn chia sẻ thẩm quyền chỉ với một cơ quan quản lý như cơ quan quản lý dải ven bờ. Bên cạnh đó, còn có những nhóm tư nhân có cùng lợi ích đại diện cho người sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp của hệ thống. Ví dụ như ngư dân, công nghiệp dầu mỏ, chủ tàu… Các tổ chức bảo tồn tự nhiên tư nhân cũng đóng vai trò ngày càng tích cực thông qua ảnh hưởng của họ tới công luận và hệ thống chính trị. 5.3.2. Các khía cạnh thể chế và luật pháp Việc quản lý các nguồn tài nguyên đòi hỏi một khung thể chế và pháp luật hợp lý. Các biện pháp kế hoạch hóa và chiến lược sẽ không giúp ích được gì nếu quy định của pháp luật không cho phép chúng thực thi và không có hiệu lực và nếu không có các cơ sở hạ tầng rõ ràng về tổ chức để quản lý hệ thống dải ven bờ. 86 Khung pháp luật phải xác định quyền sở hữu và thẩm quyền quản lý hệ thống các nguồn tài nguyên. Các biện pháp cưỡng chế như quy định, chi phí (ví dụ tiền phạt vì làm ô nhiễm) trợ cấp…cần được sử dụng. Ngay cả khi khu vực tiến hành kế hoạch nằm trong một vùng thì nhiệm vụ quản lý cũng thường không được giao cho duy nhất một cơ quan, vì việc quản lý có thể can thiệp vào trách nhiệm của chính quyền trung ương và địa phương. Tình hình sẽ trở nên phức tạp hơn nếu có nhiều vùng hoặc nhiều quốc gia tham gia vào quá trình quản lý như trong trường hợp quản lý nguồn cá biển tại Biển Bắc (Norh Sea), nơi mà uỷ ban Châu Âu quy định việc đánh bắt cá nhằm đảm bảo sản lượng tối ưu bền vững. Như đã trình bày trong phần 3.2.1, một trong những vấn đề đặc thù trong việc quản lý dải ven biển chính là vấn đề biên giới đất liền – biển thường đánh dấu sự thay đổi về pháp lý, ở nhiều quốc gia, quản lý biển được giao cho nhà nước trong khi quản lý đất liền thường thuộc thẩm quyền cấp tỉnh. Ở Mỹ, luật CZM (quản lý dải ven biển) đưa ra một khung pháp lý cho vấn đề quản lý dải ven biển và hầu hết các bang có vùng ven biển phải đưa ra một kế hoạch quản lý dải ven biển. Phương pháp của Anh trong quản lý dải ven biển lại hay thay đổi và thường không có quy định rõ ràng. Vấn đề an ninh trên biển thuộc quyền của Bộ Nông nghiệp nhưng chính các tổ chức tư nhân như National Trust lại là những người quản lý tốt nhất những dải ven biển có giá trị về cảnh quan. Vần đề thể chế phải đưa ra một khung qua đó có sự phân chia nhiệm vụ và trách nhiệm. Giải pháp khả thi là hội động quốc tế (ví dụ IMCO, Hội đồng tư vấn biển quốc tế) và các thoả thuận, sự chuyển giao tất cả các trách nhiệm cho một cơ quan có sẵn hoặc mới được thành lập hoặc một trong những cơ quan liên quan phải trở thành cơ quan đứng đầu. Một ví dụ về cơ quan được thành lập riêng là DRBC (Uỷ ban lưu vực sông Delawre). Uỷ ban này là một cơ quan liên bang tập hợp sức mạnh của nhà nước và của chính quyền trung ương. DRBC được thành lập theo pháp luật và có phạm vi quyền lực rộng lớn bao gồm cả việc giám sát và điều hành. DRBC có nhiệm vụ lập các kế hoạch tại lưu vực sông Delawre. Công việc được thực hiện thông qua lập và duy trì một kế hoạch toàn diện, đồng thời xem xét và thẩm định mọi hoạt động dự kiến thực hiện trên lưu vực, mà các hoạt động đó ảnh hưởng đến tài nguyên nước của vùng lưu vực. DRBC có thể phủ quyết bất cứ đề xuất nào có ảnh hưởng bất lợi đến việc quản lý tài nguyên nước ở một khu vực hay bộ phận lãnh thổ nào thuộc lưu vực nào đó. Những thay đổi về thể chế nói chung thường diễn ra chậm và không phù hợp với cải tiến quản lý dải ven biển. Điều cốt yếu nhất là quyết tâm cải tiến sự quản lý hệ thống. 5.3.3. Các khía cạnh kinh tế Phân tích kinh tế rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch phát triển vùng ven biển như : 87 - Phân tích kinh tế vi mô nhằm phân tích thái độ của người sử dụng đối với hệ thống, ví dụ như phản ứng của ngành công nghiệp phải trả chi phí cho việc đổ chất thải. - Phân tích chi phí lợi ích và phân tích tài chính nhằm đánh giá tính khả thi về mặt kinh tế và khả năng tài chính cho một chiến lược phát triển nào đó. - Phân tích kinh tế vĩ mô (cấp quốc gia và khu vực) nhằm đạt được kế hoạch hoạt kinh tế trong khu vực dự án. Những khía cạnh này sẽ được miêu tả một cách tóm lược dưới đây. Tổng quan Phát triển kinh tế xã hội đề cập đến phát triển chung của xã hội lên một cấp cao hơn trong lĩnh vực phúc lợi xã hội. Khía cạnh “kinh tế” đề cập hàng hoá, dịch vụ liên quan với phúc lợi vật chất. Khía cạnh “xã hội” bao gồm tất cả các đặc điểm văn hoá xã hội của phúc lợi. Nhờ nhận ra mối liên hệ cơ bản giữa phát triển và tăng trưởng kinh tế mà người ta sử dụng các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm quốc nội (GNP) tính trên đầu người như là chỉ số phát triển. Tuy nhiên, loại tham số này vẫn tồn tại một số điểm bất hợp lý, ví dụ như thiếu các thông tin về chủng loại hàng hoá và dịch vụ được cung cấp, về các ảnh hưởng tiêu cực như suy thoái môi trường và về phân phối thu nhập. Điều này dẫn tới phải chú ý tới các nhân tố khác, như mức độ mà thông qua đó những nhu cầu thiết yếu của con người được thoả mãn và tới tăng trưởng một cách chọn lọc, và ngày càng chú trọng hơn tới vấn đề chất lượng cuộc sống. Kinh tế học có thể được định nghĩa là sự nghiên cứu thái độ của con người đối với lựa chọn cách phân phối hàng hoá và dịch vụ