Số phận của "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc

Những nhà lý luận Trung Quốc nghi ngờ CNHTXHCN đều hoàn toàn đồng ý với ý kiếnphản bác của Ximonov phát biểu ở trong Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ hai, đồng thời bổ sung mấy điểm bất hợp lý của định nghĩa về CNHTXHCN. Họ viết: từ khi định nghĩa này được xác định đến nay, chưa có ai giải thích được chính xác, thường hôm qua coi là giải thích xác đáng thì hôm nay đã bị người khác lật đổ. Qua khảo sát đặc trưng văn học hiện thực chủ nghĩa, họ cho rằng, “từ đặc điểm bên trong của văn học hiện thực chủ nghĩa để phân chia văn học của hai thời đại cũ và mới thành một đường ranh giới tuyệt đối khác nhau là rất khó khăn”. Do đấy, Tần Triệu Dương đề nghị “gọi chủ nghĩa hiện thực trước mắt là chủ nghĩa hiện thực của thời đại xã hội chủ nghĩa”. Ông còn nói: “Sở dĩ tôi nghiên cứu khuyết điểm của định nghĩa CNHTXHCN là vì định nghĩanày đã đẻ ra một số tư tưởng dung tục, ở Trung Quốc chúng ta còn kết hợp với một số tư tưởng dung tục khác tạo thành sự gò bó giáo điều trong sự nghiệp văn học. Tư tưởng dung tục này là sự giải thích lý giải dung tục hoá đối với “Bài nói chuyện” của Mao Trạch Đông và biểu hiện chủ yếu là ở việc lý giải quan hệ giữa văn nghệ và chính trị” (Tần Triệu Dương: Tập tìm đường văn học Nxb. Văn học nhân dân, 1984, P143-144). Như thế có thể thấy, các ông Tần Triệu Dương đã phủ định CNHTXHCN là một phương pháp sáng tác độc lập, và chỉ ra định nghĩa này sẽ dẫn đến chủ nghĩa giáo điều và lý giải dung tục về quan hệ giữa chính trị và văn nghệ

pdf8 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Số phận của "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số phận của "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc Những nhà lý luận Trung Quốc nghi ngờ CNHTXHCN đều hoàn toàn đồng ý với ý kiến phản bác của Ximonov phát biểu ở trong Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ hai, đồng thời bổ sung mấy điểm bất hợp lý của định nghĩa về CNHTXHCN. Họ viết: từ khi định nghĩa này được xác định đến nay, chưa có ai giải thích được chính xác, thường hôm qua coi là giải thích xác đáng thì hôm nay đã bị người khác lật đổ. Qua khảo sát đặc trưng văn học hiện thực chủ nghĩa, họ cho rằng, “từ đặc điểm bên trong của văn học hiện thực chủ nghĩa để phân chia văn học của hai thời đại cũ và mới thành một đường ranh giới tuyệt đối khác nhau là rất khó khăn”. Do đấy, Tần Triệu Dương đề nghị “gọi chủ nghĩa hiện thực trước mắt là chủ nghĩa hiện thực của thời đại xã hội chủ nghĩa”. Ông còn nói: “Sở dĩ tôi nghiên cứu khuyết điểm của định nghĩa CNHTXHCN là vì định nghĩa này đã đẻ ra một số tư tưởng dung tục, ở Trung Quốc chúng ta còn kết hợp với một số tư tưởng dung tục khác tạo thành sự gò bó giáo điều trong sự nghiệp văn học. Tư tưởng dung tục này là sự giải thích lý giải dung tục hoá đối với “Bài nói chuyện” của Mao Trạch Đông và biểu hiện chủ yếu là ở việc lý giải quan hệ giữa văn nghệ và chính trị” (Tần Triệu Dương: Tập tìm đường văn học Nxb. Văn học nhân dân, 1984, P143- 144). Như thế có thể thấy, các ông Tần Triệu Dương đã phủ định CNHTXHCN là một phương pháp sáng tác độc lập, và chỉ ra định nghĩa này sẽ dẫn đến chủ nghĩa giáo điều và lý giải dung tục về quan hệ giữa chính trị và văn nghệ. Ý kiến phủ định CNHTXHCN của các ông Tần Triệu Dương bị một số nhà lý luận phê bình khác phản bác. Trương Quang Niên, Hoàng Dược Miên, Tưởng Khổng Minh, Diệp Dĩ Quần, v.v... đều xuất phát từ quan điểm thế giới quan và phương pháp sáng tác là gắn bó chặt chẽ với nhau; coi hạt nhân của khái niệm CNHTXHCN là chủ nghĩa xã hội; dùng tinh thần xã hội chủ nghĩa để giáo dục nhân dân là sự khác nhau cơ bản giữa CNHTXHCN và chủ nghĩa hiện thực trước đây. Do đó họ cho rằng không thể dùng khái niệm chủ nghĩa hiện thực thời đại xã hội chủ nghĩa để thay thế CNHTXHCN được. Mặc dù ý kiến của các ông Tần Triệu Dương... bị một số người phản bác, nhưng điều đó chứng tỏ giới văn học Trung Quốc chưa có nhận thức nhất trí về khái niệm và định nghĩa CNHTXHCN. Lúc đầu ý kiến qua lại giữa các nhà lý luận phê bình còn được khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở” đảm bảo nên chưa xảy ra chuyện gì gay gắt, nhưng đến năm 1957 nổ ra cuộc “đấu tranh chống phái hữu” thì những ý kiến khác nhau về CNHTXHCN bị quy là cuộc đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Ngày 1-9- 1957 Nhân dân nhật báo có bài xã luận Đấu tranh bảo vệ đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa phê phán “phần tử phái hữu” có mưu đồ giương cao ngọn cờ viết chân thực để “bộc lộ mặt đen tối của cuộc sống xã hội”. Ngày 16-9, Lục Đinh Nhất, Bộ trưởng bộ tuyên truyền của trung ương Đảng CSTQ, trong cuộc họp mở rộng của tổ đảng Hội nhà văn Trung Quốc nói: “Cho dù “CNHTXHCN” không phải là phương pháp sáng tác duy nhất thì cũng là phương pháp tốt nhất” (Văn nghệ báo số 25-1957) Chu Dương trong bài Phản đối thái độ hư vô chủ nghĩa đối với văn học xã hội chủ nghĩa – trao đổi với đồng chí Lưu Thiệu Đường, khẳng định “bản thân phương pháp sáng tác hiện thực XHCN là tuyệt đối không liên quan gì đến thuyết không xung đột, chủ nghĩa công thức, hiện tượng đơn điệu, dung tục cả” (Văn nghệ báo, số 15-1957). Diêu Văn Nguyên viết bài Văn học hiện thực XHCN là văn học của thời đại cách mạng của giai cấp vô sản – tranh luận với Hà Trực (Tần Triệu Dương) Chu Bột nói dứt khoát là trong lý luận văn học của Trung Quốc đã xuất hiện tư trào xét lại. Ông ta viết: “Trọng tâm của tư trào xét lại chủ nghĩa là “viết chân thực” và nhấn mạnh CNHTXHCN và chủ nghĩa hiện thực trước đây không khác nhau về phương pháp, do đấy CNHTXHCN không thể trở thành trường phái độc lập được” (Tạp chí Nhân dân văn học, số 9-1957). Những người không tán thành ý kiến của Trần Triệu Dương, v.v... nhưng cho định nghĩa CNHTXHCN chưa hoàn thiện cũng bị phê phán là xét lại như Trần Dũng, Vương Nhược Vọng, v.v... Đến 1958 Nxb. Văn nghệ mới cho ra hai tập Bàn về CNHTXHCN gồm 58 bài phê phán. Để bảo vệ CNHTXHCN, Trung Quốc còn cho dịch một số tài liệu của các học giả Liên Xô ủng hộ CNHTXHCN. Ví dụ bài CNHTXHCN – phương pháp sáng tác của nghệ thuật Liên Xô của Trôfimov, v.v.. Nxb. Văn học nhân dân cho in cuốnCác nhà văn Liên Xô bàn về CNHTXHCN (1960). Tạp chí Dịch thuật cho in cuốn Bảo vệ CNHTXHCN (1958) chia làm hai tập, tập một gồm những bài viết của giới văn học Liên Xô bảo vệ “CNHTXHCN”, tập hai gồm những bài viết của giới nghiên cứu Đông Âu về CNHTXHCN. Ngoài một số ấn phẩm dịch và một số bài phê phán ra, còn có một số bài của Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược, Qua Bảo Quyền cũng chính thức ủng hộ và bảo vệ CNHTXHCN. Quách Mạt Nhược không những coi CNHTXHCN là “ngọn cờ hồng tươi rói” mà còn coi những ý kiến bất đồng là cuộc đấu tranh chính trị (Văn nghệ báo số 30- 1957). Năm 1958, ở Trung Quốc xuất hiện phong trào “nhảy vọt”. Quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước Xô-Trung có hiện tượng rạn nứt, nên Mao Trạch Đông không đề xướng CNHTXHCN của Liên Xô nữa, mà đưa ra phương pháp sáng tác mới của riêng mình, đó là sự “kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn” (gọi tắt là “hai kết hợp”). Trong một bài nói chuyện ở Hội nghị Thành Đô của Trung ương Đảng tháng 8-1958, khi bàn đến con đường phát triển của thơ mới Trung Quốc, Mao Trạch Đông nói nội dung của thơ mới nên là “sự thống nhất đối lập giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn”. Cùng năm đó, tháng 4, Quách Mạt Nhược khi trả lời ban biên tập Văn nghệ báo về bài từ Trả lời Lý Thục Nhất – theo điệu Điệp Luyến hoa của Mao Trạch Đông, ông cho rằng bài từ đó là “sự kết hợp điển hình của chủ nghĩa lãng mạn cách mạng và chủ nghĩa hiện thực cách mạng” (Văn nghệ báo số 7-1958. Sau đó ít lâu, Văn nghệ báo số 9-1958 cho đăng một số bài của mấy nhà thơ dưới tiêu đề Sự kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng. Nhưng những bài viết này chỉ mới bàn đến “Hai kết hợp” ở trong thơ. Cho mãi đến khi tạp chí Hồng kỳ (1.6.1958) đăng bài Dân ca mới mở ra con đường mới cho thơ ca của Chu Dương thì mới chính thức truyền đạt tinh thần của buổi nói chuyện của Mao Trạch Đông nói ở trên và nói rõ ý nghĩa của “Hai kết hợp”. Chu Dương viết: “Đồng chí Mao Trạch Đông nêu ra văn học chúng ta nên là sự kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng. Đó là khái quát khoa học về kinh nghiệm lịch sử văn học, là chủ trương vô cùng chính xác căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của thời đại trước mắt mà nêu ra. Nó nên trở thành phương hướng phấn đấu của những người làm công tác văn học nghệ thuật” (Chu Dương văn tập. T.3, P5). Như vậy là, khẩu hiệu “Hai kết hợp” không phải Mao Trạch Đông trực tiếp nói ra mà là do Chu Dương truyền đạt ý của Mao Trạch Đông cho giới văn học Trung Quốc biết. Có điều nên chú ý là, khi khẩu hiệu “Hai kết hợp” mới nêu ra, nó chưa thay thế ngay cho CNHTXHCN, do đấy báo chí Trung Quốc từ 1958 cho đến đầu những năm 60 vẫn dùng song song cả hai khẩu hiệu. Họ nói hai phương pháp sáng tác này không mâu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau. Như vậy, ta thấy Trung Quốc không hề để ý đến ý kiến của Ximonov mà càng ngày càng thiên về “Cách mạng” và “tô hồng” nên mới nêu ra “Hai kết hợp”. Trong buổi nói chuyện ở Đại học Bắc Kinh tháng 11-1958, Chu Dương nói: “Chúng ta không phủ định CNHTXHCN, nhưng về hệ thống CNHTXHCN này chúng ta cũng có thể nghiên cứu một chút Cá nhân tôi cho rằng, cách nêu vấn đề kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng là tương đối toàn diện” (Chu Dương văn tập, T.3, P60). Thời “cách mạng văn hoá” (1960-1976), trong bối cảnh văn học Trung Quốc đoạn tuyệt giao lưu với văn học nước ngoài, thì việc giới thiệu, dịch thuật và bàn về CNHTXHCN gần như rơi vào trạng thái ngưng trệ. Ngoại trừ vài tạp chí dịch lưu hành nội bộ đăng vài bài của các tác giả Liên Xô về CNHTXHCN, còn mọi người chỉ còn biết “mấy vở kịch mẫu mực cách mạng” và được giới cầm quyền đương thời giải thích chúng là thành quả của phương pháp sáng tác “hai kết hợp”. Bắt đầu từ cuối những năm 70 – nghĩa là thời kết thúc cách mạng văn hoá - giới văn học khôi phục lại việc dịch và giới thiệu về CNHTXHCN. Năm 1979, Sở nghiên cứu văn học nước ngoài thuộc Viện khoa học Xã hội Trung Quốc cho in tập Những vấn đề CNHTXHCN thập niên 70 – Thảo luận về lý luận “hệ thống mở” của Liên Xô; năm 1981, Nxb. Văn học nước ngoài in cuốn Tập thảo luận về CNHTXHCN của Liên Xô. Đầu thời kỳ đổi mới, Mao Thuẫn vẫn đề cao CNHTXHCN và cho rằng hai phương pháp sáng tác CNHTXHCN và “Hai kết hợp” là nhất trí, nhưng ông bắt đầu nhắc nhở mọi người: không thể coi “Hai kết hợp” là phương pháp bắt buộc phải tuân theo(3) Chu Dương bắt đầu có vẻ cởi mở hơn. Tháng 12-1978 trong buổi toạ đàm sáng tác văn học ở Quảng Đông, sau khi nhắc đến “Hai kết hợp”, ông nói: “Bất cứ khẩu hiệu sáng tác nào đều không nên trở thành công thức và giáo điều trói buộc Chúng ta cần đề xướng phương pháp sáng tác mà chúng ta cho là tốt nhất, đồng thời càng cần phải cổ vũ đa dạng hoá phương pháp sáng tác và phong cách sáng tác, không đòi hỏi nhất luật như nhau” (Chu Dương văn tập. T.5, P178). Ở đây, có điều khác với Mao Thuẫn là ông không nói “Hai kết hợp” và CNHTXHCN là như nhau. Từ 1980 trở về sau, Chu Dương không nhắc đến khái niệm CNHTXHCN và cũng không nhắc gì đến “Hai kết hợp” nữa, mà chỉ nhấn mạnh “chủ nghĩa hiện thực cách mạng”. Ví dụ, tháng 2-1980, trong một buổi tọa đàm về sáng tác kịch bản, khi thấy có người đòi khôi phục lại truyền thống hiện thực chủ nghĩa của nền văn học mới thời Ngũ tứ, trở về như thời Ngũ tứ, Chu Dương nói: “Một thời gian trước đây chúng ta kiên trì cầm chừng con đường sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Thời kỳ Lâm Bưu và “bọn bốn tên” ngang ngược hoành hành, chủ nghĩa hiện thực bị dày xéo hoàn toàn, bây giờ nhấn mạnh lại chủ nghĩa hiện thực là rất cần thiết. Nhưng không phải quay lại trước kia một cách đơn giản, mà nay trong điều kiện mới, hãy lấy tinh thần mới để khôi phục và phát triển chủ nghĩa hiện thực cách mạng” (Chu Dương văn tập. T.5, P211-212). Qua đây có thể thấy áp lực đòi quay về truyền thống hiện thực chủ nghĩa đã ảnh hưởng tới Chu Dương. Từ cuối thập niên 70 trở đi, giới nghiên cứu văn học Liên Xô của Trung Quốc bắt đầu viết bài bình luận về “hệ thống mở của CNHTXHCN” của Liên Xô. Gần như đồng thời, một số nhà lý luận cũng bắt đầu viết bài chất vấn, nghi ngờ “Hai kết hợp”. Ví dụ, bài “Hai kết hợp” có thể trở thành phương pháp sáng tác được không? của Chu Ân Bân (1979); Phương pháp sáng tác “Hai kết hợp” và tư tưởng tả khuynh của Lưu Quang (1980); Nghi ngờ về phương pháp sáng tác “Hai kết hợp” của Đinh Phúc Nguyên (1989), v.v Những bài văn trên đều gắn “Hai kết hợp” với tư tưởng tả khuynh và phủ định “Hai kết hợp” là một phương pháp sáng tác tồn tại độc lập. Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình chính trị xã hội Liên Xô có biến động, khiến cho giới văn học của nước này dần dần công khai hoài nghi, phê phán, phủ định CNHTXHCN. Giới báo chí Trung Quốc kịp thời giới thiệu động thái này. Ngày 22/3/1989 Báo văn học Liên Xô lại công bố một tin mới: Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ 9 vừa thông qua Điều lệ mới. Điều lệ viết: Hiệp hội cho rằng “tự do sáng tác là điều kiện không thể thiếu để phát triển văn học”. Hiệp hội “sẽ như trước đây ủng hộ phương pháp hiện thực chủ nghĩa và những tác phẩm có lý tưởng xã hội chủ nghĩa”. Điều đặc biệt là trong điều lệ mới khi đề cập đến phương pháp sáng tác, tránh né khái niệm CNHTXHCN. Như vậy là văn học Liên Xô cuối cùng đã từ bỏ khái niệm và định nghĩa về CNHTXHCN. Gần như đồng thời, giới văn nghệ Trung Quốc cũng lên tiếng phủ định CNHTXHCN. Đầu tiên là bài CNHTXHCN không phải là phương pháp sáng tác độc lập của Lý Lưu Cơ đăng trên Trung Châu học san số 5-1988. Tác giả nói, CNHTXHCN chỉ là một tư trào văn học, chứ không phải là một phương pháp và chủ trương tư trào văn học này “chỉ là một nhà trong trăm nhà, là một phái trong các phái văn học, nó sẽ cạnh tranh trường tồn cùng với các đối thủ khác, nó có thể tiếp tục phát triển”. Như vậy là bài của Lý Lưu Cơ mới chỉ phủ định sự tồn tại độc lập duy nhất của CNHTXHCN, chứ chưa phủ định định nghĩa và khái niệm CNHTXHCN. Ý kiến phủ định quyết liệt là của nhà nghiên cứu Dương Xuân Thời. Ông viết hai bài liền. Bài thứ nhất có tên là Suy nghĩ lại về CNHTXHCN đăng trên Văn hối báo ngày 12-1-1989, bài thứ hai có tên là Phê phán CNHTXHCN đăng trên Văn học bình luận, số 2-1989. Cả hai bài đều nhất trí cho rằng: “CNHTXHCN không phải là tư trào văn học có tính tự phát, nó không có cơ sở tự nhiên trong sáng tác văn học, mà là một mô thức văn học do kết cấu quyền lực chính trị dựa theo ý chí quốc gia mà chế tác ra”, tác giả cho rằng “thực tiễn lịch sử của CNHTXHCN có tính phủ định, nó làm cho văn học bị hạ thấp thành thứ phụ thuộc của hình thái ý thức, thành con điếm của chính trị”. Ở Liên Xô, nó cắt đứt truyền thống hiện thực chủ nghĩa lớn lao của nước Nga từ thế kỷ XIX trở lại đây, nó tạo ra một loạt tác phẩm hiện thực giả tạo, dẫn đến sự suy thoái của văn học thời Stalin. Ở Trung Quốc nó cắt đứt truyền thống hiện thực chủ nghĩa thời Ngũ tứ, nó đánh mất chủ nghĩa hiện thực vốn rất yếu ớt của Trung Quốc “Việc phê phán tư tưởng Hồ Phong, thực chất là CNHTXHCN đã bóp chết lý luận hiện thực chủ nghĩa của thời Ngũ tứ”. Theo ông, cái gọi là CNHTXHCN hoặc “Hai kết hợp”, thực chất là một loại “chủ nghĩa cổ điển mới”, tức là “nhấn mạnh việc khống chế của hình thái ý thức đối với văn học (Văn nghệ tòng thuộc chính trị), lấy lý tính để trang sức giả tạo cho hiện thực (nhấn mạnh tính lý tưởng và chủ nghĩa lãng mạn). Nó vừa làm mất tinh thần phê phán của chủ nghĩa hiện thực lại vừa không có tinh thần phản kháng của chủ nghĩa lãng mạn. Tác giả cho rằng: “chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX và chủ nghĩa hiện thực thời Ngũ tứ là chủ nghĩa hiện thực chân chính. Chỉ có thể trên cơ sở này phát triển chủ nghĩa hiện thực chứ không thể dưới tiền đề phủ định cơ sở này mà tạo ra một CNHTXHCN khác, làm như vậy chỉ có thể chủ nghĩa hiện thực giả tạo”. Ý kiến của Dương Thời Xuân bị một vài nhà lý luận bảo thủ phản bác lại, nhưng họ lại nêu ra một ý kiến mới. Ví dụ nhà nghiên cứu Trần Liêu dưới tiền đề khẳng định CNHTXHCN, ông phủ định “Hai kết hợp”. Ông cho rằng “Hai kết hợp” xuất hiện trong bối cảnh “chống phái hữu” đang mở rộng, “đại nhảy vọt” đang dâng cao và những người theo chủ nghĩa giáo điều cho CNHTXHCN đã lỗi thời và dùng “Hai kết hợp” để thay thế CNHTXHCN, kết quả là tạo ra hàng loạt tác phẩm hiện thực giả tạo và lãng mạn rẻ tiền. Do đấy Trần Liêu cho rằng cần triệt để phủ định “Hai kết hợp” và kiên trì CNHTXHCN (Văn hối báo3-3-1989). Tiếng nói của Trần Liêu rơi vào lạc lõng, chẳng ai đồng tình. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, dường như không ai coi CNHTXHCN là phương pháp cơ bản của sáng tác văn học Trung Quốc nữa. Sự cáo biệt CNHTXHCN cũng thể hiện ở các giáo trình lý luận văn học ở các trường Đại học. Giờ đây người ta chỉ nói đến chủ nghĩa hiện thực còn những khái niệm “kết hợp chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng” hoặc CNHTXHCN đã biến mất khỏi các giáo trình lý luận văn học