Tóm tắt. Thập niên 30 của thế kỉ XX là quãng thời gian khủng hoảng kinh tế thế
giới tác động mạnh mẽ đến cả chính quốc và thuộc địa nhưng lại là bước ngoặt của
sự chuyển biến trong quan hệ giao thương giữa Đông Dương và Nhật Bản. Nhằm
dựng lại những khoảng trống lịch sử còn bỏ ngỏ, trong phạm vi bài viết này, người
viết cố gắng làm sáng tỏ về tình hình xuất nhập khẩu, cơ cấu hàng hoá, thương
nhân, thương hội. . . giữa Đông Dương và Nhật Bản trong những năm 30 của thế kỉ
XX.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự chuyển biến trong quan hệ thương mại giữa Đông Dương và Nhật Bản trong thập niên 30 thế kỉ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 116-121
This paper is available online at
SỰ CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ THƯƠNGMẠI GIỮA ĐÔNG DƯƠNG
VÀ NHẬT BẢN TRONG THẬP NIÊN 30 THẾ KỈ XX
Nguyễn Thị Thanh Tùng
Khoa Lí luận chính trị - Giáo dục công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Thập niên 30 của thế kỉ XX là quãng thời gian khủng hoảng kinh tế thế
giới tác động mạnh mẽ đến cả chính quốc và thuộc địa nhưng lại là bước ngoặt của
sự chuyển biến trong quan hệ giao thương giữa Đông Dương và Nhật Bản. Nhằm
dựng lại những khoảng trống lịch sử còn bỏ ngỏ, trong phạm vi bài viết này, người
viết cố gắng làm sáng tỏ về tình hình xuất nhập khẩu, cơ cấu hàng hoá, thương
nhân, thương hội. . . giữa Đông Dương và Nhật Bản trong những năm 30 của thế kỉ
XX.
Từ khóa: Thương mại, Đông Dương, Nhật Bản, thập niên 30.
1. Mở đầu
Năm 2013 là năm đánh dấu tròn 40 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản chính thức
được kí kết (1973-2013). Lãnh đạo hai nhà nước đã gọi tên sự kiện trọng đại này là “năm
hữu nghị Việt- Nhật”, ghi nhớ sự hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên, trong
đó có quan hệ thương mại. Nhưng nếu chúng ta chỉ nhìn vào chặng đường 40 năm đó thôi
thì chưa đủ để thấy hết trọn vẹn truyền thống thương mại, văn hoá giữa hai quốc gia.
Trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 2 năm 2012, tác giả
đã trình bày một cách hệ thống về chính sách thương mại của chính quyền thuộc địa Pháp
ở Đông Dương trong việc giải quyết mối quan hệ thương mại phức tạp, phụ thuộc nhiều
vào nhân tố chính trị giữa Đông Dương và Nhật Bản. Trong phạm vi bài viết này, tác giả
tiếp tục làm sáng tỏ về kim ngạch xuất nhập khẩu, cơ cấu hàng hoá, thương nhân, thương
hội. . . giữa Đông Dương và Nhật Bản trong những năm 30 của thế kỉ XX. Qua đó, chúng
ta có thể khẳng định ngay trong thời điểm kinh tế khủng hoảng thì quan hệ thương mại
giữa hai bên chưa bao giờ bị gián đoạn, ngắt quãng, dù chính quyền thực dân Pháp muốn
hay không muốn!
Ngày nhận bài 11/8/2013. Ngày nhận đăng 20/01/2014.
Liên lạc Nguyễn Thị Thanh Tùng, e-mail: thanhtungsphn@gmail.com
116
Sự chuyển biến trong quan hệ thương mại giữa Đông Dương và Nhật Bản...
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thập niên 30 của thế kỉ XX: thời kì đánh dấu những thay đổi lớn lao
trong quan hệ trục: Pháp - Đông Dương - Nhật Bản
Sự thay đổi đó có nguyên nhân từ cả ba phía:
Phía chính quyền thuộc địa Pháp thì muốn tìm một lối thoát cho tình hình khủng
hoảng kinh tế và khủng hoảng quan hệ giữa Pháp - Nhật trong suốt ba thập niên đầu thế kỉ.
Bản thân nước Pháp không thể gánh chịu được hết những hậu quả ở chính quốc nên không
thể “nâng đỡ” cho chính quyền của chúng ở các thuộc địa, trong đó có Đông Dương.
Về phía Đông Dương trong thời kì này tuy không phải là một cường quốc nhưng lại
giữ một vị trí chiến lược vô cùng to lớn trong “tầm ngắm” của các nước lớn và giữ nhiều
nguồn lực và tài nguyên cần thiết cho bất kì một quốc gia trong phe Đồng minh hay phe
Trục, để chuẩn bị những yếu tố cần thiết lâu dài cho cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai
đang có nguy cơ bùng nổ.
Về phía Nhật Bản, Đông Đương được Nhật đặt lên bàn cân chiến lược chính trị từ
rất sớm. Ngay từ năm 1927, “đại quần đảo vàng” đã được đặt trong mưu đồ bành trường
nhằm mở rộng biên giới của Nhật Bản ra khắp thế giới. Trong kế hoạch của Thủ tướng
Nhật Tanaka, Đông Dương nằm ở khâu quan trọng thứ ba” 1. Chiếm vùng đông bắc Trung
Hoa; 2. Chiếm toàn bộ vùng Trung Hoa; 3. Tiến tới làm chủ châu Á; 4. Bá chủ toàn cầu”
và “nếu quyền lợi của Mông Mãn thuộc về tay chúng ta, sẽ lấy Mông Mãn (tức Trung
Quốc vì Trung Quốc sát biên giới với Đông Dương- tác giả chú thích) làm căn cứ, dùng
hình thức buôn bán mà phong toả toàn bộ bán đảo Đông Dương. Phải lấy quyền lợi của
Mông Mãn làm nơi chỉ huy mà cướp đoạt những quyền lợi của toàn Đông Dương. Lấy tài
nguyên giàu có của Đông Dương mà chinh phục Ấn Độ, các đảo Nam Dương cũng như
Trung Tiểu Á, Tế Á và châu Úc” [3;15].
2.2. Nhật tăng cường thâm nhập vào Đông Dương thông qua con đường
kinh tế và ngoại giao nhằm hiện thực hoá ý đồ chính trị
Ngay trong thời kì kinh tế khủng hoảng, quan hệ thương mại chính ngạch giữa Đông
Dương và Nhật Bản vẫn được duy trì, dù cho cán cân thương mại luôn thể hiện sự chênh
lệch lớn.
Bảng 1. Tình hình xuất nhập khẩu giữa Đông Dương
với Nhật Bản thời kì khủng hoảng (Đơn vị: Fr (đồng francs)) [1]
Thời gian Nhập khẩu từ Nhật Bản Xuất khẩu từ Đông Dương
vào Đông Dương sang Nhật Bản
1929 40.807 149.989.000
1930 20.347 98.132.000
1931 15.292 49.350.000
1932 9.568 63.402.000
117
Nguyễn Thị Thanh Tùng
Theo cuốn Kinh tế Đông Dương thời kì khủng hoảng, kim ngạch xuất, nhập khẩu
giữa hai bên được thể hiện bằng các con số cụ thể như trong Bảng 1.
Hiệp ước thương mại Pháp - Nhật năm 1932 đã đánh dấu bước ngoặt trong quan
hệ trục Pháp - Đông Dương - Nhật Bản. Hoạt động giao thương giữa bai bên ghi nhận
những chuyển biến tích cực : Đối với hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản vào Đông Dương:
Năm 1936, hàng nhập khẩu đạt tỉ trọng 36.850 tấn với giá trị 30 triệu fr, hàng xuất khẩu
đạt khoảng 1,2 triệu tấn tương đương giá trị 80 triệu fr. Vào năm 1938, hàng nhập khẩu
tăng lên 60 triệu fr. Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu vào Đông Dương được phân loại thành
ba nhóm sau: sản phẩm công nghiệp đạt 15 triệu fr, sản phẩm nguyên liệu thô đạt 11 triệu
fr, hàng lương thực thực phẩm đạt 7 triệu fr trong năm 1936. Sang năm 1937, cơ cấu hàng
hoá được phân chia thành: hàng thành phẩm đạt 26 triệu fr, nguyên liệu thô đạt 8 triệu fr,
hàng lương thực thực phẩm đạt 6,5 triệu fr.
Như vậy, vào năm 1937, cũng như năm 1936, vị trí hàng đầu về sản phẩm công
nghiệp quay trở lại với Nhật, đặc biệt là vải tơ, đồ sứ, sản phẩm bằng gỗ (Bảng 2).
Bảng 2. Hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Đông Dương những năm 1936-1937 [4]
STT Tên mặt hàng Sản lượng (tấn) Giá trị (triệu Fr)
1936 1937 1936 1937
1 Trái cây tươi 1362 0,4 1 0,5
2 Khoai tây 2377 2395 0,8 1,3
3 Trà 316 259 2,2 2,5
4 Vải cotton 1691 1399 8,3 8,3
5 Rau tươi 2064 600 0,8 0,4
6 Tảo biển và nấm 139 62 1 0,8
7 Tơ sống 4 14 0,2 1
8 Than đá đặc 11064 11937 0,6 0,8
9 Hắc ín, nhựa hắc ín 371 17699 0,8 3,4
10 Nhựa đường 4442 5214 1,2 1,9
11 Dây sắt 1063 2359 0,6 1,6
12 Phân đạm 1416 1684 1,1 1,2
13 Sản phẩm từ gỗ 1456 2790 1,2 4,3
14 Vải sợi 40 50 3,4 5,6
15 Đồ sứ 375 427 1,4 1,9
16 Mặt hàng khác 2025 2255 6,2 7,7
Đối với hàng hoá xuất khẩu từ Đông Dương sang Nhật Bản: Hàng xuất khẩu vào
Nhật Bản tăng lên đến 78 triệu vào năm 1936 và 110 triệu franc vào năm 1937. Năm
1938, hàng xuất khẩu tăng 90 triệu franc, ít hơn 18% so với năm trước (Bảng 3)
Gạo vẫn luôn là mặt hàng quan trọng trong luồng trao đổi buôn bán giữa Đông
Dương và Nhật Bản mặc dù nó chỉ cao về số lượng nhưng thấp về giá trị so với mặt hàng
khác.Từ 1929, hàng lương thực thực phẩm được xuất khẩu sang Nhật không đạt nhiều giá
trị như trước nữa sau khi Nhật ngừng nhập khẩu gạo của Đông Dương.
118
Sự chuyển biến trong quan hệ thương mại giữa Đông Dương và Nhật Bản...
Bảng 3. Hàng xuất khẩu từ Đông Dương vào Nhật Bản những năm 1936-1937 [4]
STT Tên mặt hàng Sản lượng (tấn) Giá trị (triệu Fr)
1936 1937 1936 1937
1 Gạo 2923 1331 1,4 1,1
2 Cao su 5256 5034 32 50
3 Nhựa và sản phẩm nhựa 628 650 0,2 0,4
4 Đồ sơn mài 1146 1170 6,3 7,1
5 Vải bông 269 569 0,3 0,8
6 Cát 128172 152557 1,3 1,7
7 Than đá 913080 807800 32,6 40,5
8 Sắt vụn 3873 9983 0,6 2,7
9 Quặng sắt và mangan 5663 27300 0,2 1
10 Muối biển 73133 78946 1,5 2
11 Mặt hàng khác 15300 15700 8 9,5
12 Phân đạm 1416 1684 1,1 1,2
Than đá luôn là sản phẩm xuất khẩu dẫn đầu của Đông Dương vào Nhật Bản từ
758.291 tấn tương đương giá trị 14 triệu franc vào năm 1935 đã tăng lên 913.075 tấn với
giá trị 32,6 triệu franc vào năm 1936, và 807.800 tấn tương đương 40,5 triệu franc vào
năm 1937.
Quặng và than đá luôn là một mặt hàng chiếm khối lượng lớn trong nhập khẩu vào
thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc buôn bán mặt hàng này cũng
diễn tiến thuận lợi. Trong tháng 6 năm 1938, ông Jules Brevié là đại diện cho quân uỷ
toàn quyền Đông Dương gửi đến Toàn quyền Đông Dương và Giám đốc Sở kinh tế một
bản báo cáo để nói về những khó khăn gặp phải khi xuất khẩu các mặt hàng quặng và
than đá từ Bắc kì sang Nhật Bản. Nội dung bản báo cáo nêu rõ: “Thị trường Nhật Bản
rất cần khối lượng phong phú từ các khu mỏ ở Bắc kì. Vào năm 1937, sản lượng than gỗ
của chúng ta xuất sang Nhật tăng từ 808.000 tấn lên 1.533.000 tấn. Việc mất đi nguồn
tài nguyên lớn khiến cho hàng nghìn công nhân mỏ thất nghiệp. Để bảo toàn thị trường
này, các chủ mỏ than không ngần ngại theo sang tận Nhật khi họ không trả tiền. . . Trong
trường hợp các trung tâm của 2 nhà khai thác chính sản phẩm than gỗ ở Đông Dương
(Hiệp hội than Đông Triều và Hiệp hội than Bắc kì) có biểu hiện gian lận thì tôi sẽ yêu
cầu họ đến gặp bộ trưởng Bộ Thương mại để đầu tiên là buộc họ phải xem lại các điều
quy định mà họ đã kí theo tinh thần của thỏa thuận năm 1932” [6].
Một loại sản phẩm khác cũng được nói đến đó là cát. Nó giữ một vị trí quan trọng,
dành cho việc sản xuất thuỷ tinh của Nhật. Cuối cùng, hãy chú ý đến những nhu cầu tăng
trưởng của ngành công nghiệp muối biển của Nhật Bản mà Nam kì và Bắc kì là những đối
tác lớn...
2.3. Sự hiện diện của các thương nhân, thương hội Nhật ở Đông Dương
Bản thân chính phủ Pháp cũng quan ngại về ý đồ của Nhật.
119
Nguyễn Thị Thanh Tùng
Chính phủ Pháp thường xuyên cử mật thám theo dõi các hoạt động của các phái
đoàn Nhật khi họ đặt chân đến Đông Dương. Theo Hồ sơ của Phông Thống sứ Bắc kì [5],
trong tháng 10 năm 1937 đã nêu một cách chi tiết thời gian biểu của thương nhân người
Nhật thuộc tập đoàn YAMANE khi họ sang thăm Bắc kì, tìm hiểu nguồn tài nguyên ở các
tỉnh Thanh Hoá, Lạng Sơn, Thái Nguyên, thăm các cảng ở Hải Phòng, Quảng Ninh và
tìm hiểu tình hình buôn bán ở biên giới Việt- Trung. Các thương nhân của tập đoàn này
gồm có: Uno Chikamasa, Ogasawa Mitsuo và Onishi Bunichi (tìm hiểu về mỏ kim loại),
Onoda Naoji và Ikekawa Hideo, (mỏ sắt), Komatsu Motokichi, ông Ujihara Susumu và
Yamada Chikachi. . . Kết quả của sự hiện diện của tập đoàn này ở Đông Dương là một bản
hợp đồng thương mại kí với một thương nhân Pháp RETIF Ernest mua 20000 tấn quặng
mỗi tháng. Việc vận chuyển hàng hoá được đưa qua biên giới Việt- Trung, qua cảng Hồng
Kông mang về Nhật Bản.
Một nhà kinh doanh người Nhật hiện diện ở Đông Dương trong những thập niên 20,
30 đó là Mitsuhiro Masuhida - người sáng lập công ti Đại Nam ở Sài Gòn vào năm 1922.
Nhưng do mục đích thương mại chỉ là sự che đậy cho ý đồ gián điệp chính trị nên ông này
bị chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương trục xuất. Đến năm 1938, ông này lại
quay trở lại Đông Dương hoạt động kinh doanh cho chính phủ Nhật. Trong quá trình đó,
ông ta đã tiếp xúc với một số chính khách người Việt như Cường Để, Ngô Đình Diệm. . .
hòng mưu đồ cho việc dựng một chính phủ thân Nhật ở Đông Dương trong giai đoạn sau
này.
3. Kết luận
Qua những số liệu cụ thể nói trên, trước hết chúng ta có thể thấy thập niên 30 của
thế kỉ XX là quãng thời gian khủng hoảng kinh tế thế giới tác động mạnh mẽ đến cả chính
quốc và thuộc địa nhưng lại là bước ngoặt của sự chuyển biến trong quan hệ giao thương
giữa Đông Dương và Nhật Bản. Quan hệ thương mại giữa hai đối tác vẫn được duy trì
đều đặn cho dù có sự chênh lệch trong cán cân thương mại và sự tác động của ý đồ chính
trị giữa hai chính thể. Rõ ràng, mặc dù là chủ nhân thực sự của nền thương mại Đông
Dương, muốn độc chiếm Đông Dương trước sự cạnh tranh khốc liệt của Hoa thương và
Nhật thương, nhưng với chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương, yếu tố lợi nhuận
luôn là vấn đề hàng đầu, quan trọng nhất.
Thứ hai, nhìn vào tỉ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu, chúng ta thấy cán cân thương
mại giữa hai bên hầu như nghiêng về Đông Dương. Đông Dương xuất khẩu nhiều hơn là
nhập khẩu hàng của Nhật Bản. Trong khi đó, cán cân thương mại giữa Pháp và Nhật lại
nghiêng về Nhật. Các sản phẩm gạo, cao su, và than đá là mặt hàng chủ yếu góp phần làm
mất cân bằng cán cân thương mại giữa Đông Dương và Nhật Bản trong thời gian này. Hay
nói cách khác đây là những mặt hàng cần thiết để chủ nghĩa quân phiệt Nhật phát triển
công nghiệp quân sự và chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho mưu đồ bành trướng “Đại
Đông Á” thông qua phát động một cuộc chiến tranh ở mặt trận châu Á- Thái Bình Dương.
Tóm lại, giữa Đông Dương và Nhật Bản có một truyền thống thương mại thăng trầm
120
Sự chuyển biến trong quan hệ thương mại giữa Đông Dương và Nhật Bản...
theo biến động của lịch sử. Nếu nhìn vào quan hệ thương mại mang tầm chiến lược giữa
hai bên trong giai đoạn hiện nay làm hệ quy chiếu cho hoạt động giao thương thời cận đại,
chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy trong thập niên 30 của thế kỉ XX, vì ý đồ chính trị
của các nhà cầm quyền khiến cho sự chuyển biến thương mại chưa đi đúng bản chất, quỹ
đạo thật của nó. Đó là bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng quan hệ đối
tác chiến lược giữa hai bên từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (1973) cho đến ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] André Touzet, 1934. L’Economie indochinoise et la grande crise universelle. Paris.
[2] Charles Robequain, 1939. l’Evolution économique de l’Indochine. Ed. Paul Hartman,
Paris.
[3] Đỗ Đình Hãng- Trần Văn La, 1996. Quan hệ Nhật – Pháp ở Đông Dương trong chiến
tranh Thái Bình Dương. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Kham Voraphet, 2004. Commerce et colonisation en Indochine 1800 – 1945. Ed. Les
Indes Savantes, Paris.
[5] RST- 69993, 1937-1938. Người Nhật đến Bắc kì buôn bán. Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
[6] RST- 69992, 1938. Những khó khăn gặp phải khi xuất khẩu các mặt hàng quặng và
than đá từ Bắc kì sang Nhật Bản. Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.
ABSTRACT
Changes in Japan’s commercial relations
with Indochina in the 1930’s
In the 1930’s there was a global economic crisis which significantly influenced
Japan economic relationship with the French colony of Indochina making it a milestone in
the changing commercial relations between Japan and Indochina. In order to fill historical
gaps, the writer presents Japan’s imports, exports and goods structure in its trade with
Indochina in the 1930s.
121