Tác động của đô thị hoá tới phát triển kinh tế - xã hội của một số làng nghề ở thành phố Hà Nội

Tóm tắt. Quá trình đô thị hoá của Hà Nội đang trong giai đoạn phát triển rất năng động. Nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các làng nghề truyền thống. Một vài làng nghề đang lụi tàn, trong khi một số khác phát triển hơn. Để tồn tại, các làng nghề phải thay đổi công nghệ sản xuất, mô hình, chất lượng, giá cả, phương pháp xúc tiến quảng bá. Nghệ nhân, người sử dụng lao động và chính quyền địa phương cần thực hiện tổng hợp các biện pháp trong công nghệ sản xuất, marketing cũng như sử dụng nhân công.

pdf11 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của đô thị hoá tới phát triển kinh tế - xã hội của một số làng nghề ở thành phố Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Interdisciplinary Science, 2013, Vol. 58, No. 1, pp. 166-176 This paper is available online at TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HOÁ TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦAMỘT SỐ LÀNG NGHỀ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI Đặng Thị Phương Anh, Cao Hoàng Hà và Bùi Thị Thu Vân Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Quá trình đô thị hoá của Hà Nội đang trong giai đoạn phát triển rất năng động. Nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các làng nghề truyền thống. Một vài làng nghề đang lụi tàn, trong khi một số khác phát triển hơn. Để tồn tại, các làng nghề phải thay đổi công nghệ sản xuất, mô hình, chất lượng, giá cả, phương pháp xúc tiến quảng bá. Nghệ nhân, người sử dụng lao động và chính quyền địa phương cần thực hiện tổng hợp các biện pháp trong công nghệ sản xuất, marketing cũng như sử dụng nhân công. Từ khóa: Làng nghề, đô thị hoá, phát triển, tồn tại, công nghệ sản xuất, mô hình, chất lượng, giá cả. 1. Mở đầu Phân tích, nghiên cứu về đô thị hoá ở nước ta không còn là vấn đề mới mẻ, bởi quá trình đô thị hoá đang ở giai đoạn phát triển sôi động, kéo theo đó là hàng loạt các hệ quả. Đô thị hoá đang phát triển đa dạng, phức tạp hơn, nên bổ sung nghiên cứu thực tiễn ở bất kì phạm vi nào đều là hoạt động đáng được khuyến khích. Trong bài báo này, chúng tôi đánh giá, phân tích ảnh hưởng của một chủ thể được coi là hiện đại: đô thị hoá với một chủ thể mang tính chất truyền thống là làng nghề. Căn cứ vào các điều kiện chủ quan và khách quan, nhóm tác giả lựa chọn tác động của quá trình đô thị hoá tới phát triển kinh tế xã hội của một số làng nghề nổi tiếng tại thành phố Hà Nội, từ đó đóng góp một số giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề trong điều kiện tác động của quá trình đô thị hoá. Received December 11, 2011. Accepted May 24, 2012. Contact Cao Hoang Ha, e-mail address: havns.edu@gmail.com 166 Tác động của đô thị hoá tới phát triển kinh tế - xã hội của một số làng nghề... 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Cơ sở lí luận về đô thị hoá và làng nghề 2.1.1. Về đô thị hoá Đô thị hóa được hiểu khái quát là quá trình hình thành và phát triển các thành phố không chỉ về quy mô mà còn về cả chất lượng. Sự gia tăng số lượng và quy mô các thành phố đã góp phần làm thay đổi tương quan dân số giữa thành thị và nông thôn. Quá trình đô thị hóa thường kéo theo quá trình công nghiệp hóa và do đó đô thị hóa luôn là người bạn đồng hành với công nghiệp hóa. Quá trình đô thị hóa cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu không gian kiến trúc xây dựng. Quá trình đô thị hóa liên quan chặt chẽ với đặc điểm hình thành dân cư đô thị và sự phát triển của thành phố. Đô thị càng phát triển, càng mở rộng thì mức độ phụ thuộc và tác động của nó đối với các khu vực ngoại ô xa xôi càng nhiều. Quá trình đô thị hóa ở Hà Nội - thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của cả nước đang phát triển mạnh theo chiều rộng và có sức lan tỏa mạnh. Vào thế kỉ XIX, Hà Nội là trung tâm hành chính, kinh tế với những cái tên 36 phố phường được đặt theo hàng hóa trao đổi. Vào đầu những năm 2000, Hà Nội có bốn quận và năm huyện, đến 1/8/2008, thành phố được mở rộng sang toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc, và bốn xã: Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình. Diện tích đất tự nhiên hiện nay đã lên tới 334460,2 ha [8] (gấp 3,6 lần so với trước), với dân số cũng không ngừng tăng cao. Năm 1995, Hà Nội mới chỉ có 2,4 triệu người, đến năm 2000 lên được 2,76 triệu thì đến năm 2009 đã đạt tới con số 6,47 triệu dân, sơ bộ năm 2010 là 6561,9 nghìn người [8]. Trong vòng 10 năm, dân số Hà Nội đã tăng lên khoảng 3,8 triệu người. Không chỉ có thế, tỉ lệ dân thành thị của Hà Nội cũng đạt được mức khá và có sự gia tăng nhanh (tính đến năm 2010, tỉ lệ dân số thành thị của Hà Nội đã đạt 41,3% [8]). Trong khi mức độ và tốc độ đô thị hóa trên phạm vi toàn quốc ở Việt Nam chậm hơn so với các nước khác trên thế giới và trong khu vực, thì Hà Nội, đã có tốc độ đô thị hóa nhanh hơn nếu so sánh với chính bản thân thành phố qua các thời điểm, nó đã đạt được tương đương với tỉ lệ đô thị hóa ở các thành phố của các nước phát triển trong khu vực châu Á và đang phấn đấu gia nhập hàng ngũ các thành phố có dân số lớn hơn 10 triệu người của thế giới. 2.1.2. Về làng nghề truyền thống Làng nghề truyền thống hay làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng Tổ nghề và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc [7]. Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với 167 Đặng Thị Phương Anh, Cao Hoàng Hà và Bùi Thị Thu Vân nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện trong từng làng - xã ở nông thôn sau đó ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản xuất nông nghiệp và sản xuất - kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân. Công nghệ kĩ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề thủ công truyền thống thường khá thô sơ, sử dụng kĩ thuật thủ công là chủ yếu. Đa số nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ. Hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ nguồn nguyên liệu sẵn có trên địa bàn địa phương. Phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào kĩ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mĩ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân. Một đặc trưng dễ nhận thấy là các sản phẩm làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mĩ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các sản phẩm làng nghề truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mĩ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở Nhà nước. Sở dĩ các làng nghề có sức sống mạnh mẽ và trường tồn cùng lịch sử dân tộc, tới hàng chục thế kỉ qua, bởi chúng được đảm bảo bởi hệ thống các nhân tố có mối quan hệ mật thiết với nhau bao gồm: nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường đối với hàng thủ công truyền thống, trình độ của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, kĩ thuật truyền thống và kinh nghiệm lâu đời, vị trí địa lí - môi trường của làng nghề. 2.1.3. Một số làng nghề truyền thống tại Hà Nội a. Làng gốm Bát Tràng Bát Tràng là làng nghề gốm lâu đời và lừng danh bậc nhất ở Việt Nam. Làng gốm Bát Tràng thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cách trung tâm Hà Nội 10 km về phía Đông. Từ trung tâm thành phố có thể đến Bát Tràng theo nhiều hướng, bằng cả đường bộ cũng như đường sông. Làng gốm này ra đời từ khoảng thế kỉ XIV-XV, dưới thời Trần. Trải qua hơn 5 thế kỉ tồn tại và phát triển, Bát Tràng đã tích luỹ được bề dày kinh nghiệm và kĩ thuật sản xuất, nổi bật là việc áp dụng nghiêm ngặt các quy trình sản xuất: tạo cốt gốm – xương gốm (chọn đất, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, phơi sấy và sửa cốt gốm mộc), trang trí và tráng men, lựa chọn lò và kĩ thuật nung. Dòng men chính là điểm nhấn ấn tượng và nổi tiếng bậc nhất trong các dòng sản phẩm của gốm Bát Tràng, các loại men chính bao gồm: men lam, men nâu, men trắng (ngà), men rêu xanh, men rạn. Tổng hợp kĩ thuật kết hợp với các dòng men và minh văn tạo nên các dòng sản phẩm tinh xảo và có giá trị cao. b. Làng nghề đúc đồng Ngũ Xã Ngũ Xã là làng nghề đúc đồng có truyền thống và nổi tiếng hàng đầu của nước ta. Làng nằm bên bờ hồ Trúc Bạch, phía Tây Tp. Hà Nội. Vào khoảng thời Lê (1428 – 1527), dân 5 làng Đông Mai, Châu Mỹ, Long Thượng, Diên Tiên và Dao Niên thuộc huyện Văn Lâm - Hưng Yên và Thuận Thành - Bắc Ninh vốn có nghề đúc thủ công, được triều đình trưng tập về kinh thành để lập trường đúc tiền và đồ thờ theo yêu cầu của Nhà nước. Dân 168 Tác động của đô thị hoá tới phát triển kinh tế - xã hội của một số làng nghề... các làng này kéo về Thăng Long lập nghiệp và lập nên làng nghề mới, lấy tên Ngũ Xã để ghi nhớ 5 làng quê gốc mình. Sau đó, họ tổ chức thành phường nghề riêng, gọi là phường đúc đồng Ngũ Xã. Trình độ đúc đồng của các nghệ nhân Ngũ Xã đã đạt tới đỉnh cao không chỉ trong phạm vi nước ta. Bên cạnh sự thông minh sáng tạo, đôi mắt nhìn chuẩn xác, bàn tay khéo léo và đức tính cẩn trọng, người thợ thủ công còn có bí quyết nghề nghiệp và kinh nghiệm từ lâu đời. Bí quyết đúc đồng của Ngũ Xã là ở khâu làm khuôn, nấu đồng, rót đồng thành sản phẩm, trạm khắc đồng. Cách tạo mẫu, làm khuôn, chất liệu của khuôn, cách nấu đồng và rót đồng đều tuân thủ theo một quy trình nghiêm ngặt của các bí quyết được lưu giữ từ lâu đời. c. Làng dát vàng Kiêu Kỵ Làng Kiêu Kỵ thuộc xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Tp. Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km về phía Đông Bắc, là nơi duy nhất trong cả nước có nghề làm vàng quỳ. Nghề làm vàng quỳ đã có ở Kiêu Kỵ hơn 250 năm, hai vị được coi là tổ nghề của làng là cụ Nguyễn Quý Trị và cụ Vũ Danh Thuần. Vàng Kiêu Kỵ được xuất đi khắp các miền đất nước đáp ứng nhu cầu sơn thếp tượng Phật, đồ thờ, trang trí hành phi – câu đối, tôn tạo và phục chế các công trình cổ; sản phẩm cũng được xuất khẩu sang một số nước châu Á. Kĩ thuật làm vàng quỳ ở Kiêu Kỵ hết sức tinh xảo và công phu. Nguyên liệu để làm quỳ là vàng, bạc nguyên chất. Vật liệu bọc lót vàng là giấy giống: gồm giấy quỳ và vải sơn. Giấy quỳ có màu đen, nguyên liệu nhập từ Đông Hồ, được chế biến và xử lí nhiều lần mới thành giấy giống. Công cụ sản xuất vàng - bạc quỳ khá đơn giản gồm búa, đe, kìm và kéo chuyên dụng. Công đoạn chế tác vàng bạc quỳ gồm hơn 50 công đoạn nhỏ từ làm mực, keo, làm giấy giống, đến nong vàng..., quan trọng nhất vẫn là tay người thợ thủ công và nguyên liệu. d. Làng giấy dó Cót Làng Cót thuộc phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, nằm ven sông Tô Lịch, phía Tây thành phố Hà Nội. Ngoài tên Cót, trước đây làng còn có tên là Hạ Yên Quyết hoặc Bạch Hoa Liên. Từ xa xưa, làng Cót đã nổi tiếng với sự sầm uất và sôi động của các hoạt động làm giấy, tiền âm phủ và vàng mã. Giấy dó là nguyên liệu chính tạo nên các loại sản phẩm của làng, phần lớn được nhập từ nơi khác về, trong đó chủ yếu là từ Đông Hồ. Giấy được in mực, mầu tuỳ theo các loại sản phẩm, sau đó dùng máy cắt để tạo nên sản phẩm cuối cùng. Các sản phẩm của làng có mặt ở hầu khắp các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, với các loại tiền giấy, vàng, đồ hàng mã... 2.2. Tác động của đô thị hoá đến phát triển kinh tế xã hội một số làng nghề truyền thống ở thành phố Hà Nội 2.2.1. Về mặt sản phẩm Có thể nói, quá trình đô thị hoá của Hà Nội đang ở giai đoạn phát triển sôi động nhất từ trước đến nay. Làng nghề nói chung đã phát triển tới giai đoạn hàng hoá, tức là tồn 169 Đặng Thị Phương Anh, Cao Hoàng Hà và Bùi Thị Thu Vân tại và phát triển theo quy luật cung cầu của thị trường và xã hội. Do vậy, sự thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội, trong đó, quá trình thay đổi của đô thị hoá có tác động rõ rệt về mặt kinh tế. Sự thay đổi của đời sống kinh tế chi phối đến các nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt trong đời sống và sản xuất. Đây là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến quy mô, cấu trúc sản xuất, số lượng - chất lượng sản phẩm, giá cả, cạnh tranh trong và ngoài nước... Quá trình khảo sát ở tất cả các làng nghề cho thấy, sự thay đổi trong quá trình sản xuất đóng vai trò rất quan trọng. Bởi quá trình này quyết định và chi phối tới quá trình sử dụng lao động, giá nhân công, chi phi sản xuất và giá cả đầu ra của sản phẩm. Tiết kiệm được chi phí sản xuất, đảm bảo sự đa dạng mặt hàng trong khi vẫn tạo được các mặt hàng chủ lực, có thế mạnh cạnh tranh là xu hướng chung để tồn tại. Hàng trăm năm cho đến hàng chục năm trước đây tuỳ từng làng nghề, đa phần nguyên liệu của hàng thủ công được lấy tại chỗ để đảm bảo chi phí vận chuyển ở mức thấp nhất. Làng Ngũ Xã có hệ thống thu mua các loại đồng tạp ngay tại chỗ, trong khi nguyên liệu vàng và bạc của làng Kiêu Kỵ cũng không xa địa phương. Với điều kiện đặc thù, làng Bát Tràng và Cót thường nhập nguyện liệu từ các vùng khác; nếu như giấy Cót được nhập từ làng Đông Hồ - Bắc Ninh thì đất sét và chất liệu men của Bát Tràng được nhập từ khắp cả nước. Hiện nay, do nhiều nhân tố, việc lấy nguyên liệu các làng nghề có sự chuyên môn hoá bởi nhiều địa phương khác có nguồn nguyên liệu phong phú và đảm bảo chất lượng hơn. Công nghệ sản xuất hiện đại hơn, năng suất cao hướng tới giảm giá thành sản phẩm, trong khi chất lượng sản phẩm vẫn đảm bảo và đáp ứng được nhu cầu của thị trường là trăn trở lớn của tất cả các làng nghề. Với đặc thù sản xuất của mình, sự cạnh tranh và theo nhu cầu thị trường, họ đã mạnh dạn thay đổi và cải tiến quy trình trong quá trình sản xuất. Tuy hướng đi là giống nhau nhưng cách thực hiện có khác nhau, do đó kết quả cũng không đồng đều. Ở Bát Tràng, sự thay đổi mang tính đột phá chính là việc thay đổi lò nung thủ công sang lò ga, vừa đảm bảo yếu tố môi trường, năng suất sản phẩm cao hơn và không ảnh hưởng quá lớn đến chất lượng sản phẩm. Một số công đoạn làm đất sét, tạo khung cho gốm cũng được thay bằng máy. Tuy nhiên, ở một số gia đình nghệ nhân có uy tín, lò ga chỉ được sử dụng đối với các mặt hàng phổ thông, sản xuất hàng loạt; còn đối với sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao, công đoạn nung truyền thống vẫn được đảm bảo. Tương tự vậy, công đoạn làm mực và keo da trâu ở làng Kiêu Kỵ cũng được các nghệ nhân cải tiến; vừa giúp giảm phụ thuộc nguồn phụ liệu vừa giảm giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc tạo màu cho cốm bằng các phụ phẩm hoá chất độc hại vượt quá chất lượng cho phép ở làng Vòng lại đem đến một tác dụng ngược bởi sự tẩy chay của thị trường. Cũng về phương diện công nghệ, dù bị quá trình đô thị hoá tác động nhưng nhiều làng nghề vẫn giữ được các quy trình cổ truyền do đặc thù sản xuất riêng. Rõ nét nhất là làng Kiêu Kỵ vẫn giữ được hơn 50 công đoạn dát vàng thủ công phức tạp (làm mực, keo, giấy giống, dát mỏng vàng - bạc, nong vàng, đánh quỳ). Ở làng Ngũ Xã, các công đoạn tạo mẫu, làm khuôn (khuôn có nhiều loại, chủ yếu thuộc hai loại: khuôn liền và khuôn mang cá), nấu đồng và rót đồng vẫn được giữ nguyên. Thời gian, công đoạn tạo khuôn cũng như chất liệu khuôn hầu như không thay đổi so với trước đây. Duy chỉ có chất liệu tạo khuôn trước đây bằng 170 Tác động của đô thị hoá tới phát triển kinh tế - xã hội của một số làng nghề... đất sét pha các phụ liệu, hiện nay có thêm cả khuôn gỗ. Trong thời kì hoạt động sản xuất và buôn bán theo quy luật cạnh tranh của thị trường thì việc đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu thay đổi từng ngày của xã hội là việc sống còn đối với các làng nghề. Bên cạnh đa dạng hoá các sản phẩm, việc tìm ra các sản phẩm phù hợp với từng phân khúc thị trường nhỏ cũng như các mặt hàng độc đáo, đặc trưng, truyền thống tạo nên thế mạnh so với các mặt hàng ngoại nhập là bước đi đúng đắn và thích nghi tốt. Nhận thấy sự thay đổi nhu cầu của thị trường, hầu hết các làng nghề đều mạnh dạn đưa ra các sản phẩm mới mà trước đây ít sản xuất hoặc chưa có như nồi lẩu, đồ chơi trẻ em, các đồ dùng gia đình của làng Bát Tràng, dát bạc thiếc ở làng Kiêu Kỵ, tranh đồng, tượng chân dung, đồ nghệ thuật đồng ở làng Ngũ Xã hay tiền âm phủ ở làng Cót. Tuy nhiên, việc chạy theo nhu cầu của thị trường mà không có được sản phẩm thế mạnh như làng giấy Cót sẽ dẫn đến xu hướng mất dần làng nghề bởi nguyên liệu giấy được nhập từ địa phương khác, các công đoạn sản xuất đều bằng máy, hầu như không có bàn tay và khối óc của các nghệ nhân trong sản phẩm. Bát Tràng, Kiêu Kỵ và Ngũ Xã là các làng nghề còn giữ được nhiều sản phẩm đặc trưng thế mạnh dựa vào suy nghĩ đúng đắn và đóng góp của nhiều nghệ nhân nổi tiếng. Các sản phẩm không bị mất đi thị trường, thậm chí mở rộng hơn đó là chân đèn, lư hương, dát vàng hoành phi - câu đối, tranh đồng, đồ thờ bằng đồng... 2.2.2. Về mặt thị trường Thị trường làng nghề ban đầu được hình thành hoàn toàn trái ngược với lí thuyết kinh tế học: "thị trường là môi trường địa lí của sản phẩm nơi mà có nguồn cung cấp được hình thành để đáp ứng nhu cầu của đối tượng khách hàng" ("Luật cạnh tranh - Cần định nghĩa rõ khái niệm thị trường" - Civilla Win - 26/04/2008). Tuy nhiên, cùng với sự thăng trầm của nền kinh tế đất nước, thoát khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp, chuyển sang kinh tế nông nghiệp và trong vài chục năm gần đây đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và áp dụng mô hình kinh tế thị trường điển hình, thị trường cho các sản phẩm làng nghề cũng đối mặt với nhiều thách thức. Trước tiên, đối tượng khách hàng đã có vai trò nhất định trong việc duy trì sự sống còn của làng nghề. Yếu tố cầu được xác định rõ nét hơn trong bài toán kinh tế của một sản phẩm. Một số làng nghề đã dần biến mất hoặc thu hẹp lại dưới hình thức chuyển sang cơ cấu kinh tế khác do sản phẩm làm ra không có khách hàng tiêu thụ. Các sản phẩm đúc đồng của làng Ngũ Xã những năm đầu thế kỉ XX được đánh giá cao vì vào thời điểm đó tất cả các sản phẩm gia dụng trong gia đình đô thị đều ưa chuộng chất liệu đồng. Nhưng cùng với sự mở rộng thị trường đến những năm 80 của thế kỉ XX, khi các sản phẩm gia dụng bằng nhôm hay inox xuất hiện tràn lan thì các sản phẩm bằng đồng với giá thành cao hơn không còn chỗ đứng. Người dân không thể tự kiếm sống bằng nghề gia truyền nên đã chuyển sang làm nghề khác hoặc bán đất đi nơi khác sinh sống. Một số làng nghề khác có thể duy trì được do nhu cầu sử dụng sản phẩm đó vẫn tồn tại nhưng không mang lại giá trị kinh tế cao do tư duy cố hữu của người làm nông nghiệp chỉ sản xuất dựa trên những gì mình có. Sản phẩm gốm của Bát Tràng những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ XX vẫn đơn điệu, mẫu mã dập khuôn. Nhưng cùng với làn sóng của đô thị hóa, đứng 171 Đặng Thị Phương Anh, Cao Hoàng Hà và Bùi Thị Thu Vân trước tác động của nhu cầu khách hàng ngày càng đa dạng cùng với sự mở mang về tư duy làm kinh tế của người dân để cải thiện về chủng loại, mẫu mã sản phẩm, đáp ứng đủ mà không thừa sự mong mỏi của khách hàng, mang lại nguồn kinh tế tối ưu cho nhà sản xuất. Ngày nay đến với một số làng nghề ở Hà Nội như Bát Tràng, Kiêu Kỵ,... không còn sự sản xuất đơn lẻ, manh mún mà là những công ty, hợp tác xã, những nhóm, hội tập hợp những người cùng sản xuất một sản phẩm lại để trước hết có sự thống nhất trong điều tra nhu cầu khách hàng và sau đó mỗi cơ sở tự chọn cho mình một thế mạnh để vươn lên. Điều thấy rõ nhất ngày nay trước tác động của đô thị hóa ở Hà Nội, tuy làng nghề đã thành phố nghề, một số giá trị văn hóa truyền thống bị mai một đi nhưng đã giúp thanh lọc các sản phẩm có giá trị và chất lượng. Những cơ sở sản xuất nào linh hoạt biến đổi kịp theo nhu cầu của khách hàng - yếu tố cơ bản của nền kinh tế, đã vươn lên làm kinh tế chính từ sản phẩm mà cha ông truyền lại cho họ. Việc xác định được nhu cầu của khách hàng để cho ra đời những sản phẩm phù hợp theo từng giai đoạn, nền kinh tế thị trường còn bắt nhà sản xuất muốn đứng vững phải có một hệ thống phân phối sản phẩm đa dạng, đến tận tay khách hàng. Đô thị hóa khiến cho việc lưu thông hàng hóa trở nên dễ dàng hơn. Các gia đình - cơ sở sản xuất vẫn bán lẻ tại nhà như truyền thống bởi ngày nay khu vực làng nghề cũng được coi là một cái chợ. Khi chất lượng cuộc sống dân cư đô thị được nâng cao họ muốn đi tìm lại những giá trị truyền thống ở những làng quê lưu dấu vết văn hóa cổ truyền và làng nghề là một điểm đến hấp dẫn. Đây là cơ hội cho các cơ sở sản xuất làng nghề tiêu thụ trực tiếp sản phẩm họ làm ra. Nền kinh tế thời kỳ hội nhập cũng giúp cho người dân làng nghề tìm được các kênh phân phối trên thị trường quốc tế. Một số cơ sở gốm Bát Tràng đã có gian hàng tại các trung tâm thương mại lớn ở Nhật, Hàn Quốc, Hoa Kỳ,... Tuy còn gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng hơn nữa kênh phân phối song tác động c