I. Tại sao nói: “Xã hội học với tư cách là một bộ phận của khoa học thực nghiệm nó chỉ ra đời ở các nước Tây Âu thế kỷ XIX?”
Xã hội học với tư cách là một bộ phận của khoa học thực nghiệm đã ra đời ở các nước Tây Âu thế kỷ XIX. Để giải thích được vấn đề này cần phải trở lại với những điều kiện kinh tế - xã hội ở Tây Âu thế kỷ XIX với tư cách là tìm hiểu những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của XHH thế giới.
1.1. Vào thế kỷ XIX ở các nước Tây Âu đã trải qua những biến động hết sức to lớn, trước hết là những biến động trong lĩnh vực kinh tế.
- Vào thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở các nước Anh, Pháp, Đức Thực chất của cuộc cách mạng công nghiệp này là sự thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc. Chính vì vậy nó đã đem lại những thay đổi to lớn trong lòng xã hội châu Âu.
+ Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
+ Kích thích xu hướng tự do hoá thương mại, tự do hoá sản xuất, tự do hoá lao động làm cho thị trường trong nước và thì trường các nước Tây Âu được mở rộng.
+ Hình thành những trung tâm công nghiệp mới và các đô thị mới. Nhiều nhà máy, xí nghiệp, tập đoàn kinh tế ra đời thu hút nguồn lao động từ các vùng cận thị và nông thôn.
+ Hình thái kinh tế phong kiến sụp đổ dành chỗ cho sự phát triển mạnh mẽ của CNTB.
22 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu ôn thi môn Xã hội học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỊCH SỬ VÀ LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC
I. Tại sao nói: “Xã hội học với tư cách là một bộ phận của khoa học thực nghiệm nó chỉ ra đời ở các nước Tây Âu thế kỷ XIX?”
Xã hội học với tư cách là một bộ phận của khoa học thực nghiệm đã ra đời ở các nước Tây Âu thế kỷ XIX. Để giải thích được vấn đề này cần phải trở lại với những điều kiện kinh tế - xã hội ở Tây Âu thế kỷ XIX với tư cách là tìm hiểu những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của XHH thế giới.
1.1. Vào thế kỷ XIX ở các nước Tây Âu đã trải qua những biến động hết sức to lớn, trước hết là những biến động trong lĩnh vực kinh tế.
- Vào thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở các nước Anh, Pháp, Đức Thực chất của cuộc cách mạng công nghiệp này là sự thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc. Chính vì vậy nó đã đem lại những thay đổi to lớn trong lòng xã hội châu Âu.
+ Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
+ Kích thích xu hướng tự do hoá thương mại, tự do hoá sản xuất, tự do hoá lao động làm cho thị trường trong nước và thì trường các nước Tây Âu được mở rộng.
+ Hình thành những trung tâm công nghiệp mới và các đô thị mới. Nhiều nhà máy, xí nghiệp, tập đoàn kinh tế ra đời thu hút nguồn lao động từ các vùng cận thị và nông thôn.
+ Hình thái kinh tế phong kiến sụp đổ dành chỗ cho sự phát triển mạnh mẽ của CNTB.
+ Sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế đã tạo ra xã hội công nghiệp, đó là một bước tiến lớn trong lịch sử châu Âu, nhưng nó cũng nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp như: khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp
+ Hệ thống tổ chức quản lý kinh tế theo kiểu truyền thống bị phá vỡ, đòi hỏi sự thay thế của một phương thức quản lý mới phù hợp với tổ chức xã hội công nghiệp. Để thiết lập phương thức quản lý mới cần có sự hỗ trợ của các ngành khoa học trong đó có xã hội học.
1.2. Thế kỷ XIX là thế kỷ của những biến động chính trị - xã hội ở các nước Tây Âu
- Cuộc cách mạng Pháp 1789 là một cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất trong lịch sử . Thắng lợi của cuộc cách mạng này đã đem lại việc thành lập nhà nước tư sản Pháp, các giai cấp mới, các quan hệ xã hội mới được hình thành. Nền dân chủ tư sản được hình thành thay thế cho chế độ chuyên chế độc tài của nhà nước phong kiến. Khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” đã tạo điều kiện cho sự tự do phát triển của các cá nhân và sự phát triển của các ngành khoa học.
- Bên cạnh đó là những biến đổi to lớn trong đời sống xã hội châu Âu dưới tác động của cách mạng công nghiệp và của các cuộc cách mạng xã hội như: sự thay đổi thể chế chính trị, sự tàn lụi của Thiên chúa giáo và sự đề cao đạo Tin lành, sự di dân, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp, vấn đề nhà ở, sự hình thành lối sống đô thị với các đặc trưng nhanh nhẹn, nhạy bén nhưng lạnh lung, vô danh, cô đơn
- Những sự kiện nói trên đã làm cho xã hội châu Âu mà đặc biệt là các nước Tây Âu thực sự trải qua những biến động dữ dội. Nhiều nhà khoa học và nhà chính trị đã tìm cách để ổn định xã hội, và họ đã tìm đến với khoa học như những công cụ sắc bén để ổn định xã hội. Đây cũng chính là những tiền đề quan trọng thúc đẩy sự ra đời của XHH.
1.3. Sự phát triển về tư tưởng, lý luận và khoa học ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII và XIX
- Bước vào thời kỳ khai sang, những tư tưởng khoa học và tiến bộ phát triển mạnh mẽ, nhất là các tư tưởng của các nhà CNXH không tưởng như: Xanh-xi-mông, Vôn-te, Rút-xô
- Đặc biệt những thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội trong các thế kỷ 17 - 19 đã đem lại cho con người cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội.
+ Về khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu về lý thuyết và phương pháp: Niu-tơn tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn, Lô-mô-nô-xôp tìm ra định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Puốc-kin-giơ tìm ra thuyết tế bào
+ Từ những thành tựu này, con người nhận thức rằng: Giới tự nhiên vận động và phát triển theo quy luật khách quan chứ không do một lực lượng siêu nhiên nào quy định sự phát triển của chúng. Và có thể dung phương pháp khoa học tự nhiên để nghiên cứu về xã hội.
+ Trong sự phát triển của khoa học xã hội, triết học giữ một vai trò quan trọng. Sự phát triển của triết học thực chứng, và sau này là hệ thống triết học Mac - Lênin đã cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học hơn về các sự kiện và hiện tượng xã hội.
- Có thể nói vào thế kỷ XIX, các nước Tây Âu đã thực sự bước vào xã hội tư bản với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp. Sự phát triển của nền kinh tế và những biến đổi về chính trị - xã hội, về tư tưởng, lý luận và khoa học đã tạo ra những tiền đề cần thiết và đầy đủ cho sự ra đời của xã hội học. Với những điều kiện và tiền đề ấy có thể khẳng định rằng XHH với tư cách là một bộ phận của khoa học thực nghiệm nó chỉ ra đời ở các nước Tây Âu thế kỷ XIX.
------------------------------------------------------------------------------------------------
II. Các lý thuyết
1. Lý thuyết hệ thống xã hội của T.Parson
Lược sử
Talcott Parson(1902-1979) là nhà xã hội học người Mỹ, nổi tiếng với lý thuyết hệ thống xã hội, lý thuyết hành động, có công lớn trong việc giới thiệu Weber với xã hội học Mỹ: ông đã dịch cuốn “Đạo đức Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản” năm 1930.1931, ông đưa xã hội học vào giảng dạy ở trường Havard.Và trở nên nổi tiếng từ khi xuất bản sách”Cấu trúc của hành động xã hội” năm 1937.
Với tư cách là nhà khoa học tổ chức, sáng lập ra “Khoa các quan hệ xã hội” ở trường đại học tổng hợp Havard năm 1946.Parson là tác giả của khoảng 270 ấn phẩm nghiên cứu trong đó có công trình xã hội học quan trọng như “Hệ thống xã hội”(1951), “Tiến tới một lý thuyết tổng quát về hành động” (1951).
Lý thuyết hệ thống-hành động:
Parson sử dụng khái niệm cấu trúc và hệ thống gần như tương đương nhau.Khái niệm cấu trúc nhấn mạnh các yếu tố tạo thành khuôn mẫu, định hình hệ thống một cách tương đối ổn định.Khái niệm hệ thống nhấn mạnh một tập hợp các yếu tố được sắp xếp theo trật tự nhất định, được hình thành vừa độc lập vừa liên tục trao đổi qua lại với hệ thống môi trường xung quanh.
Về mặt lý thuyết, Parson xem xét hệ thống trong một trục toạ độ ba chiều : chiều cấu trúc, chiều chức năng, chiều kiểm soát.
Parson phân biệt ít nhất 4 cấp độ và thông qua quá trình xã hội hoá, hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi của cơ thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn hoá. Đặc điểm của từng cấp độ hệ thống:
- Cấp hệ thống văn hoá tương ứng với hệ thống biểu trưng.Biểu hiện cụ thể là niềm tin tôn giáo, hệ ngôn ngữ, hệ các giá trị, chuẩn mực xã hội.
- Cấp hệ thống xã hội bao gồm tập hợp các cá nhân tương tác với nhau trong các tình huống nhất định.
- Cấp hệ thống nhân cách có đơn vị cấu thành cơ bản là cá nhân, chủ thể hành động.
- Cấp hệ thống hành vi bao gồm các quá trình sinh lý, vật chất hữu cơ của đời sống con người mà quan trọng nhất là hoạt động thần kinh và hệ thống vận động.
Tất cả các hệ thống hành động đều phải đương đầu với những vấn đề chức năng, những nhu cầu của tổng thể, đó là sự thích nghi, hướng đích, thống nhất và duy trì khuôn mẫu.
Sơ đồ lý thuyết AGIL
Theo Parson, hệ thống xã hội được cấu thành từ 4 tiểu hệ thống tương ứng với 4 loại nhu cầu, chức năng cơ bản:
Một là, Thích ứng (Adaptation-A): Có chức năng cung cấp các phương tiện, nguồn lực, năng lượng để thực hiện các mục đích đã xác định. Đây chính là tiểu hệ thống kinh tế.
Hai là, Hướng đích (Goal attainment -G): Đóng vai trò xác định các mục tiêu và định hướng cho toàn bộ hệ thống vào việc thực hiện mục tiêu đã định. Đây chính là hệ thống chính trị.
Ba là, Liên kết (Intergration-I): thực hiện chức năng găn kết các cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội, đồng thời kiểm soát xã hội, đây chính là các cơ quan pháp luật.
Bốn là, Duy trì khuôn mẫu lặn (Latent pattern maintenance):thực hiện chức năng kích thích, chức năng quản lý, bảo trì các khuôn mẫu hành vi, ứng xử của các thành viên. Đây chính là hệ thống gia đình, tổ chức văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật...
Các tiểu hệ thống:
- gắn kết với nhau theo nguyên lý điều khiển học
- có mối quan hệ với nhau theo nguyên lý chức năng để tạo thành một chính thể toàn vẹn
- trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội.
Các chức năng và tiểu hệ thống có thể tương ứng đan xen, bù trừ với nhau rất phức tạp.
---------------------------------------------------------------------------------
THUYẾT TƯƠNG TÁC BIỂU TRƯNG
1.Một số luận điểm gốc:
Nguồn gốc:xuất phát từ các quan niệm xã hội học của M. Weber, G.Simmel, R.Park.
Tác giả nổi bật: C.H.Cooley, G.H.Mead, H.Blumer, E.Goffman.
Tên gọi của thuyết là “tương tác luận biểu trưng” do Blumer đưa ra năm 1937.
Nội dung của luận điểm gốc:
Xã hội được tạo thành từ sự tương tác của vô số các cá nhân, bất kì hành vi và cử chỉ nào của con người đều có vô số các ý nghĩa khác nhau, hành vi và hoạt động đó phụ thuộc đó không những phụ thuộc mà còn thay đổi với các ý nghĩa biểu trưng.
Tư tưởng của Simmel:
Xã hội được tạo thành từ vô số các “nguyên tử xã hội” là các mối tương tác xã hội.
Tương tác xã hội phụ thuộc vào số lượng thành viên của nhóm.
Kế thừa và phát triển tư tưởng trên, W.Thomas và F.Zanniecki đã phát triển thành trường phái Chicago-cái nôi của thuyết tương tác biểu trưng:
-Định lý Thomas: “nếu người ta xác định tình huống một cách thực tế thì kết quả hành động của họ cũng thực tế”.
-Nghiên cứu của W. Wund về ý thức, vai trò của yếu tố ngôn ngữ, trí nhớ đối với các quá trình trải nghiệm bên trong của con người.
-Quan niệm của W.James về “dòng ý thức”.
-Watson cho rằng tâm lý học hành vi là một “cành nhánh” của khoa học thực nghiệm khách quan của khoa học tự nhiên với mục tiêu nghiên cứu là dự báo và kiểm soát hành vi.
-Thorndike phát hiện một số quy luật quan trọng của hành vi.
2. Lý thuyết tương tác “ba ngôi” của George Mead.
G.H.Mead (1863-1931), nhà triết học thực chứng, nhà tâm lý học hành vi xã hội, nhà xã hội học người Mỹ.
Tác phẩm chính : Tâm trí, tôi và xã hội.
Phương pháp tiếp cận:
Xây dựng và phát triển các khái niệm “cái tôi”, “nhân cách”, “tương tác”, “biểu tượng”, “bản ngã”, “nhân cách”, “tri giác”...
Phân biệt rõ cách tiếp cận xã hội học với tâm lý học nói chung và với tâm lý xã hội nói riêng.
Quan niệm về cái tôi và lý thuyết tương tác ba ngôi:
“Cái tôi” thực chất là một cấu trúc xã hội nảy sinh từ kinh nghiệm xã hội có được trong mối quan hệ “ba ngôi”:
-Cá nhân với bản thân.
-Cá nhân với người khác.
-Cá nhân với xã hội.
Cơ chế hành động của cá nhân quan trọng là sự hình thành “cái tôi” và “sự tương tác”.Thông qua cơ chế đó các yếu tố môi trường được chia thành:
-Sự vật khách quan tôn tại với tư cách là các kích thích, không phụ thuộc vào cá nhân.
-Sự vật tồn tại với tư cách là đối tượng của hành động hay yếu tố tạo thành cấu trúc của hành động.
Có thể gọi lý thuyết tương tác của Mead là lý thuyết tương tác “ba ngôi” với một ý nghĩa nữa là trong mối quan hệ với người khác mỗi cá nhân đều xuất hiện dưới 3 hình thái:
-Tôi (I) bao gồm: + Tôi- chủ thể
+ Tôi- khách thể
-Bản thân (Me)
-Tự mình (Self)
S.Freud cũng có quan niệm về cấu trúc kiểu “ba ngôi một thể” bao gồm:
-Tôi (Ego)
-Nó (Id)
-Siêu tôi (Super- ego).
Trong mối quan hệ xã hội, nhờ “cái tôi” mà con người có các khả năng hành động quan trọng:
-Có thể tự tách ra khỏi bản thân để nhìn mình như một người khác.
-Có thể đặt mình vào vị trí của người khác.
Cơ chế hình thành của “cái tôi” thông qua:
-Bắt chước, giao tiếp, đóng vai trò trong các trò chơi lúc còn nhỏ và trong quá trình tiếp xúc, trao đổi, tương tác với người khác lúc lớn lên.
Kết luận: Cái tôi là một cấu trúc xã hội đặc thù này sinh, phát triển trong mối tương tác xã hội với người khác và với chính bản thân mình.
Khái niệm “biểu tượng”:
Mead đã đưa ra định nghĩa “biểu tượng” (symbol) theo kiểu chủ nghĩa hành vi:
Biểu tượng là một loại kích thích mà phản ứng đáp lại nó đã được đem lại từ trước.
-----------------------------------------------
Tương tác XH?
Là là hình thức giao tiếp xh hay trao đổi giữa cá nhân và các cộng đồng, trong đó mối quan hệ qua lại của chúng được thực hiện. Hành động xh được diễn ra và đạt được sự thích ứng của một hành động này với một hành động khác, qua đó cũng còn tìm thấy cái chung trong sự hiểu biết tình huống, ý nghĩa hành động, nhằm đạt được mức độ hợp tác nhất định hoặc sự đồng tình giữa chúng.
Những nội dung cơ bản của lý thuyết tương tác biểu trưng và lý thuyết trao đổi Xh.
+ Lý thuyết tương tác biểu trưng:
Các cá nhân trong quá trình tương tác với nhau không phản ứng đối với các hành động trực tiếp của người khác mà cố gắng “đọc” và lý giải chúng. Người ta thường hay tìm những ý nghĩa gắn cho các hành động và cử chỉ đó, tức là biểu trưng.
Để hình thành những biểu trưng của tương tác, trước hết cá nhân phải ý thức một cách rõ ràng về một hành động, cử chỉ, phát ngôn, chữ viết hay hình ảnh nào đó. Sau đó cá nhân sẽ quy gán cho chúng những ý nghĩa xác định, dần dần những ý nghĩa quy gán này sẽ được nhiều người thừa nhận và chúng ta có một biểu tượng tương tác. Trước khi trở thành biểu tượng chung cho một nền văn hóa hay của cả nhân loại, chúng chỉ là biểu tượng tương tác của một tiểu văn hóa.
Các biểu tượng có một đặc điểm chung là chúng mang những ý nghĩa nhất định và tạo ra sự phản ứng giống nhau ở các cá nhân. Ý nghĩa của biểu tượng không trùng với ý nghĩa trực tiếp của những cái thể hiện chúng.
Trong tương tác biểu trưng và phân tích một mô hình tương tác biểu trưng cần hết sức chú ý đến biểu tượng, ký hiệu, cử chỉ, khi “đọc” và “giải thích” về hành động của người khác. Hệ htoongs biểu tượng dtrong tương tác có thể gồm: cử chỉ và hành động của cá nhân, ngôn ngữ nói và viết. Theo lý thuyết này con người như một thực thể sống trong thế giới của các biểu tượng và môi trường ký hiệu, xh điều khiển đối với các cá nhân thông qua các biểu tượng.
Để có thể hiểu được ý nghĩa những hành động, cử chỉ của người khác chúng ta cần nhập vai của người đó, hay đặt mình vào vị trí của họ. Chỉ khi ở vị trí của người đó chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa những phát ngôn, cử chỉ, hành động của họ.
Khả năng của con người đặt mình vào vị trí, vai trò của đối tác và nhìn nhận mình như một đối tác hành động là cơ sở quan trọng bậc nhất trong sự tương tác của họ đối với môi trường xung quanh. Chính cơ chế này giúp con người tạo ý nghĩa cho các sự vật, hiện tượng và hành dộng xung quanh.
+ Lý thuyết trao đổi XH:
Các cá nhân hành động tuân theo nguyên tác trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán dương hay danh dự. Những người trao nhiều cho người khác có xu hướng được nhận lại nhiều lần. Những người nhận nhiều từ người khác sẽ cảm thấy có sự tác động, hay áp lực từ phía họ. Chính tác động của áp lực này giúp cho những người cho nhiều nhận lại được nhiều từ phía những người mà họ đã được trao nhiều. Người ta gọi đó là sự cân bằng và lợi ích.
Có 4 nguyên tắc trong traoo đổi XH như sau:
Nếu một hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại.
Hành vi được hưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh tương tự.
Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều chi phí vật chất và tinh thần để đạt được nó.
Khi nhi cầu cá nhân gần như hoàn toàn được thỏa mãn thì ít cố gắng hơn trong việc nỗ lực tìm kiếm chúng.
Không có hành động Xh thì không có tương tác Xh.
Không có hành động xh thì không có giao tiếp xh. HĐXH là cơ sở, là tiền đề của tương tác xh. Chỉ có HĐXH mới tạo ra tương tác xh mà thôi.
HĐXH diễn ra lặp đi lặp lại mới tạo ra tương tác. Mức độ bền vững của tương tác phụ thuộc số lần hành động xh diễn ra trong khoảng thời gian mà các đối tượng giao tiếp xh với nhau.
Khuynh hướng hoặc tính chất của HĐXH quyết định khuynh hướng của tương tác xh.
---------------------------------------------------------
Thay lời tạm kết: Những hàm ý thực tiễn
Xã hội học là một khoa học về xã hôi, vì thế mọi người ở mọi lĩnh vực và cấp độ hoạt động đều có thể và nên vận dụng vào cuộc sống, cho nên những hàm ý của mọi tri thức xã hội chắc chắn thể hiện ra ở mọi cấp độ. Trên giá nhiều cửa hàng sách, ta luôn thấy cả loạt những cuốn dạy ta hiểu cách sống (tức là cách quan hệ với người khác) trong hôn nhân và gia đình. trong thương trường và nơi làm việc. Người ta cũng dạy cả cách cư xử với chính bản thân mình nữa. Khi tư vấn cho ta, những tác giả ấy đề cập vấn đề từ cấp độ triết học đến những kỹ năng cụ thể. Đằng sau mọi phiên bản đa dạng của những cuốn sách kiểu ấy, cái chung của chúng là triết lý về hành động xã hội. Ấy là đối tượng ("công việc") duy nhất của chúng ta, những con người, là hành động của mình và của người khác và hành động xã hội có nghĩa là những "ý nghĩa" gắn với hành động. Do đó, hãy cố gắng hiểu (thông điệp) hành động của người khác và đưa ra (thông điệp) hành động của mình một cách "đúng" và lương tác hành động tuân theo và (đồng thời) tạo ra những khuôn mẫu, hiển nhiên chúng là sự câu thúc (hạn chế, định hình) hành động của chúng ta, nhưng cũng có thể (và thực ra là như vậy) chỉ là "khung tham khảo". Nghĩa là ta cần và có thể "làm khác đi", "vượt lên" chúng coi chúng là "nguồn lực" của hành động chứ không phải là cái "lồng sắt” (chữ dùng của Weber) phải tuyệt đối tuân thủ. Từ khóa then chốt của những cuốn giáo trình về cách sống này là "tích cực", "thay đổi", "khác đi".
Điều đúng với cấp độ cá nhân thì cũng đúng với mọi cấp độ trên cá nhân: gia đình, tổ chức, cộng đồng, thiết chế, Nhà nước, dân tộc, loài người. Vì thực ra ở cấp độ nào dù lớn đến đâu thì đơn vị tác nhân vẫn là những cá nhân cụ thể.
Theo quan sát của tác giả bài viết, hiện nay nhiều chương trình giảng dạy và giảng viên môn xã hội học hoặc những lĩnh vực liên quan đến xã hội học vẫn dựa trên những mặc định tư tưởng và tập quán đã bị vượt qua trên thế giới từ vài thập niên trước (quá nhấn mạnh vào quy luật, cấu trúc tính tất yếu...). Về mặt học thuật, chỉ nói đến khía cạnh này thì hoàn toàn không phản ánh đầy đủ diện mạo tư tưởng xã hội hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Quan trọng nữa là về mặt thực tiễn, thông điệp hàm ý (hoặc ẩn ngầm hoặc không có ý thức) của nó có xu hướng khích lệ người ta chỉ thấy một chiều những câu thúc, chấp nhận những tính tất yếu, cái xã hội khách quan và một diễn ngôn thông dụng hơn trong đời thường: định mệnh, số phận. Kết quả phụ kèm theo là nó không trang bị cho người ta tính sẵn sàng thay đổi đón nhận vai trò "chủ thể hành động". Sự nhấn mạnh thái quá và một chiều nói trên thể hiện khuynh hướng tôi muốn gọi là "bái cấu trúc giáo" (vận dụng khái niệm bái vật giáo của Mác).
Xã hội học hành động xã hội giúp ta chú ý và nhấn mạnh đến một chiều cạnh khác của hiện thực xã hội đối lập với hệ tri thức mà tôi tạm gọi là hệ tri thức chức năng- cấu trúc - tiến hóa. trong hiện thực xã hội của xã hội học hành động, có một không gian rộng lớn dành cho chủ thể sáng tạo. Điều này rất quan trọng cho những con người đang sống trong những xã hội biến đổi nhanh: nó chỉ cho họ thấy rằng người ta có thể tạo nên tương đối nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới bằng hiểu biết và hành động xã hội. Không phải con người bị giam hãm trong những cấu trúc, thụ động chờ đợi cấu trúc "tự tiến hóa", mà cấu trúc là sản phẩm của hành động con người, hoàn toàn có thể và chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi chính hành động con người.
Xã hội Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ. Nếu so sánh với khu vực và thế giới, khó có thể dự đoán rằng, với nhiều cách thức mà ta làm trong 15 năm qua, thì có thể khắc phục được sự tụt hậu của mình hay không. Do đó, việc nhấn mạnh vào chủ thể hành động như trong xã hội học hành động là rất quan trọng đối với người Việt Nam. Bởi vì ta đang cần thoát khỏi sự câu thúc của các "định luật" cấu trúc - tiến hóa gồm cả sự câu thúc của những tri thức phụ thuộc vào chúng, thay vào đó là chủ động tổ chức nên những cấu trúc - chức năng hiện tại của thời đại, thông qua chủ thuyết nhấn mạnh vào hành động xã hội. Như Mác đã nói: con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử và như xã hội học hành động hiện đại nói: cấu trúc và thi