BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
1.1. Hoạt động dạy
Hoạt động dạy là hoạt động của người được đào tạo nghề dạy học (giáo
viên) tổ chức và điều khiển hoạt động của người học nhằm giúp họ lĩnh hội nền
văn hoá xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách .
Xét về bản chất của hoạt động dạy học, L.X.Vưgôtxki cho rằng có hai kiểu
dạy học ứng với hai kiểu định hướng khác nhau:
- Dạy học hướng vào mức độ hiện có của người học. Đó là vùng phát triển
hiện có, ở đó người học đã có tri thức, kỹ năng và phương pháp nhất định.
Dạy học hướng vào vùng phát triển hiện có là dạy học hướng vào tri thức,
phương pháp học mà học sinh đã biết, đã nắm vững. Kiểu dạy học này
không đem lại cái mới cho người học, mà chỉ nhằm củng cố những cái đã có
ở các em, nghĩa là không tạo được sự phát triển
35 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tâm lý học sư phạm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN II. TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
CHƯƠNG I. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC
1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
1.1. Hoạt động dạy
Hoạt động dạy là hoạt động của người được đào tạo nghề dạy học (giáo
viên) tổ chức và điều khiển hoạt động của người học nhằm giúp họ lĩnh hội nền
văn hoá xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách .
Xét về bản chất của hoạt động dạy học, L.X.Vưgôtxki cho rằng có hai kiểu
dạy học ứng với hai kiểu định hướng khác nhau:
- Dạy học hướng vào mức độ hiện có của người học. Đó là vùng phát triển
hiện có, ở đó người học đã có tri thức, kỹ năng và phương pháp nhất định.
Dạy học hướng vào vùng phát triển hiện có là dạy học hướng vào tri thức,
phương pháp học mà học sinh đã biết, đã nắm vững. Kiểu dạy học này
không đem lại cái mới cho người học, mà chỉ nhằm củng cố những cái đã có
ở các em, nghĩa là không tạo được sự phát triển.
- Dạy học hướng vào vùng phát triển gần nhất. Đó là vùng của những điều mà
học sinh chưa biết, nhưng các em có thể đạt được nhờ sự giúp đỡ của giáo
viên và có thể bằng con đường khác (do người khác giúp đỡ, tự học, tự tìm
hiểu). Dạy học theo kiểu này là cung cấp cho người học tri thức, hình thành
kỹ năng và phương pháp mới, đó là dạy học phát triển, hay là dạy học dẫn
dắt và kéo theo sự phát triển của người học. Theo quan niệm này thù dạy học
là tổ chức quá trình phát triển của người học, dẫn dắt họ đạt tới vùng phát
triển gần nhất, đồng thời lại hình thành vùng phát triển gần nhất kế tiếp, và
cứ thế học sinh lớn lên, tiếp tục có sự phát triển. Đó cũng chính là mục đích
của dạy học, là tính quy luật của hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động
của học sinh.
Nhìn một cách khái quát thì hoạt động dạy của giáo viên được cấu thành bởi
ba yếu tố chính là nội dung, phương pháp và tổ chức. Ba yếu tố này chi phối hoạt
động dạy của giáo viên, trong đó nội dung chương trình là yếu tố có tính pháp quy,
không được phép thay đổi, còn giáo viên có thể chủ động điều khiển phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học sao cho hoạt động dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Để tiến hành hoạt động dạy, giáo viên thực hiện những công việc cụ thể sau:
- Đưa ra mục đích, yêu cầu, nghĩa là xác định sản phẩm học tập và tiêu chuẩn
(mẫu) của sản phẩm đó (thường gọi là yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng,
thái độ) đối với mỗi tiết học, bài học (nay còn gọi là mục tiêu của tiết học,
bài học. Mỗi tiết học là một đơn vị thời gian sư phạm, thường được quy định
khoảng 40 hoặc 45 phút, còn bài học là một đơn vị kiến thức tươgn đối hoàn
chỉnh và có thể thực hiện trong một tiết hoặc vài ba tiết học).
- Cung cấp phương tiện, điều kiện để người học thực hiện hoạt động học. Đó
chính là học liệu bao gồm sách vở, giấy bút, đồ dùng học tập, thiết bị thí
nghiệm, thực hành phù hợp với nội dung học tập.
- Vạch ra trình tự thực hiện các hành động, các thao tác và những quy định
chặt chẽ phải tuân theo khi thực hiện các hành động, các thao tác theo quy
trình đó.
- Chỉ dẫn người học làm theo quy trình, quy phạm đồng thời trong quá trình
đó, giáo viên theo dõi, giúp đỡ người học trong trường hợp họ gặp khó khăn.
- Đánh giá và hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập.
Đó là 5 việc chính trong quá trình thực hiện hoạt động dạy cụ thể của giáo
viên. Song trên thực tế, không phải môn học nào, tiết học nào cũng đều diễn ra như
vậy, mà tuỳ thuộc vào nội dung và phương tiện cụ thể, giáo viên sẽ sử dụng những
phương pháp dạy học khác nhau.
1.2. Hoạt động học
Học theo nghĩa nguyên thuỷ là bản tính của con người (có ở cả con vật)
hướng vào việc tiếp thu kinh nghiệm, sự hiểu biết và kỹ năng của giống loài giúp
cho cá thể tồn tại trong cuộc sống. Học đối với con người nói chung là thu thập
kiến thức, rèn luyện kỹ năng bằng những cách thức, những phương pháp khác
nhau.
Để lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo (kinh nghiệm xã hội) nhất định, con
người có các cách học khác nhau. Cụ thể:
- Học nhờ trải nghiệm trong cuộc sống, qua đó con người tích luỹ được kinh
nghiệm và những hiểu biết nhất định. Cách học này chỉ giúp con người lĩnh
hội được những kinh nghiệm không trùng hợp với những mục đích trực tiếp
của hoạt động hay hành vi; liên quan trực tiếp tới nhu cầu, hứng thú cá nhâ,
các nhiệm vụ trước mắt, còn những cái khác thì bỏ qua; chỉ đưa lại những tri
thức tiền khoa học, có tính chất ngẫu nhiên, rời rạc, không hệ thống; chỉ hình
thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm hàng ngày trực tiếp mang
lại.
- Học theo phương pháp nhà trường, được tổ chức tự giác từ nhà nước và xã
hội, được thựchiện trong trường học. Phương pháp nhà trường ở đây được
dùng hàm chứa trong nội dung, phương pháp dạy - học, cả phương thức tổ
chức dạy - học. Đây là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Nó chỉ có
thể thực hiện ở một trình độ khi mà con người có được khả năng điều chỉnh
những hành động của mình bởi mục đích đã được ý thức. Khả năng này chỉ
được hình thành vào lúc 5-6 tuổi. Chỉ có thông qua hoạt động học theo
phương thức nhà trường mới hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học
cũng như những cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lý và sự phát triển
toàn diện nhân cách người học.
- Học theo phương pháp tự học được nhiều người quan tâm, song học theo
phương pháp này đòi hỏi tính độc lập và tính kiên trì rất cao ở người học.
Trong điều kiện hiện nay thì việc tự học kết hợp với phương pháp nhà
trường là phương thức học tập đem lại hiệu quả cao.
Bản chất của hoạt động học được thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Hoạt động học là hoạt động chiếm lĩnh, hay nói các khác là hoạt động lĩnh
hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri thức đó. Điều này có nghĩa tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo là đối tượng của hoạt động học. Như vậy, học sinh
thực hiện hoạt động học cũng chính là để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mới. Khi một học sinh thực hiện hoạt động học thì chính học sinh đó đã trở
thành chủ thể chiếm lĩnh nội dung học tập mới, chủ thể hành động tích cực
cả trí óc và tay chân. Trong quá trình này các chức năng tâm lý của học sinh
được vận hành tích cực.
- Hoạt động học làm thay đổi chính chủ thể. Bằng hoạt động học, mỗi chủ thể
(người học) lĩnh hội được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, nhờ vậy mà tạo
được sự phát triển về tâm lý của người học (sự phát triển về nhận thức lý
tính, về các phẩm chất nhân cách). Nhờ hoạt động học và các hoạt động
giáo dục khác mà học sinh có sự phong phú về tâm hồn, hình thành nhân
cách. Có thể nói rằng, hoạt động học tạo ra sự biến đổi ở chính người học,
hình thành nhân cách học sinh.
- Hoạt động học là hoạt động không chỉ hướng vào việc lĩnh hội tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính
bản thân hoạt động, hay nói cách khác là lĩnh hội cả cách học.
Muốn cho hoạt động học diễn ra có kết quả cao, người học phải biết cách học,
nghĩa là phải có tri thức về bản thân hoạt động học. Sự tiếp thuc tri thức này không
diễn ra một cách độc lập với việc tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Do đó, trong
khi tổ chức hoạt động cho người học, giáo viên vừa phải ý thức được những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo nào cần được hình thành ở người học, vừa phải có một quan
niệm rõ ràng là thông qua tổ chức sự tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó thì người
học sẽ lĩnh hội được cách học gì? con đường giành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó
như
thế nào?
2. HÌNH THÀNH HOẠT ĐỘNG HỌC
Từ khái niệm và bản chất của hoạt động học, ta thấy rằng việc hình thành
hoạt động học là mục tiêu quan trọng của hoạt động dạy. Hoạt động dạy phải được
tổ chức sao cho thông qua đó, học sinh tổ chức được hoạt động học một cách tốt
nhất, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động và có hiệu quả.
2.1. Hình thành động cơ học tập
Động cơ học tập của học sinh chính là nhu cầu được mỗi học sinh nhận thức,
trở thành động lực thôi thúc các em học, hay nói cách khác động cơ học tập là cái
mà vì nó học sinh thực hiện hoạt động học.
Học sinh trong cùng một lớp học có cùng đối tượng học tập, nhưng trên thực
tế, ở mỗi thời điểm khác nhau và ở những học sinh khác nhau có thể có động cơ
khác nhau, hoặc ở một học sinh có thể có vài ba động cơ khác nhau, hoặc có sự
chuyển hoá giữa các động cơ.
Trong thực tế, có những học sinh chăm chỉ học tập, học một cách tự giác là
do mong muốn lĩnh hội nội dung học tập, và hệ quả của hoạt động chăm chỉ là kết
quả học tập cao; song có những học sinh chăm học là do sức ép của gia đình và
nhà trường và những em này thường cũng đạt kết quả cao; có những em cố gắng
học tập là do muốn nhận phần thưởng của gia đình hoặc nhà trường cho thành tích
học tập của mình
Nhìn chung, ở mỗi học sinh đồng thời có vài ba động cơ học tập khác nhau,
nhưng chỉ có một động cơ học tập chiếm ưu thế, động cơ đích thực, động cơ chân
chính là động cơ xuất phát từ chính đối tượng của hoạt động học, từ chính việc lĩnh
hội nội dung học tập, và đó là động cơ đúng đắn.
Trong quá trình dạy học, giáo viên nên chú ý hình thành cho học sinh động
cơ học tập đúng đắn bởi đó chính là động lực giúp các em thực hiện hoạt động học
tập một cách hứng thú và có hiệu quả.
2.2. Hình thành nhiệm vụ học tập
Nhiệm vụ học tập là hình thức cụ thể hoá nội dung học tập thành việc học cụ
thể mà mỗi học sinh phải thực hiện để có được sản phẩm nhất định. Đó chính là
các đơn vị kiến thức và kỹ năng cụ thể (mục tiêu) cùng với phương tiện cần thiết
tương ứng để học sinh có thể thực hiện các hành động học bằng hệ thống thao tác
tương ứng để đạt sản phẩm học tập theo quy định.
Như vậy, mỗi tiết học, mỗi bài học có thể có một hay nhiều nhiệm vụ học
tập cụ thể. Nhiệm vụ học tập khác với nhiệm vụ trong các loại hình hoạt động khác
(ví dụ nhiệm vụ trong lao động sản xuất). Sự khác biệt là ở chỗ, nhiệm vụ trong lao
động sản xuất cũng làm ra sản phẩm nhưng không tạo ra năng lực mới, nhiệm vụ
học tập hướng vào việc tạo ra năng lực mới thể hiện ở kết quả học tập.
Nhiệm vụ học tập là nhân tố quan trọng của hoạt động học vì không có
nhiệm vụ học tập thì hoạt động học không thể thực hiện các hành động, các thao
tác học, và như vậy sẽ không thể đạt tới kết quả .
2.3. Hình thành hành động học
Hành động học là cách diễn ra hoạt động học (cách thực hiện nhiệm vụ học
tập), gồm các hành động: hành động phân tích, hành động mô hình hoá, hành động
cụ thể hoá, hành động kiểm tra đánh giá.
Hành động phân tích
Đây là hành động tiên quyết trong hoạt động lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo. Đó là cách tiếp cận tài liệu học tập và qua đây người học phát hiện được đối
tượng cần chiếm lĩnh trong các mối quan hệ nội tại của nó. Sự tìm kiếm, phát hiện
lôgic, mối quan hệ chung đó tạo nên nội dung hoạt động tư duy và là điểm xuất
phát trong quá trình hình thành tri thức, khái niệm của học sinh.
Hành động mô hình hoá
Đây là cách thức người học ghi lại quá trình và kết quả thực hiện hành động
phân tích ở trên dưới dạng mô hình và ký hiệu. Mô hình là sự diễn đạt lôgic khái
niệm một cách trực qua, nhờ đó mà khái niệm được chuyển từ bên ngoài vào bên
trong đầu người học. Quá trình đó diễn ra theo tiến trình sau:
Đối tượng (khái niệm bên ngoài) Mô hình Khái niệm (trong đầu)
Trong quá trình học tập, người học thường sử dụng hai loại mô hình:
- Mô hình vật chất gồm mô hình tĩnh và mô hình động.
- Mô hình tư tưởng gồm mô hình hình ảnh, mô hình ký hiệu và mô hình tư
duy.
Giữa mô hình và đối tượng có quan hệ với nhau theo hai tính chất sau:
- Mô hình giống đối tượng ở chỗ nó thay thế đối tượng về một số thuộc
tính và một số mặt nào đó, nên được gọi là tính chất nhận thức của mô
hình.
- Mô hình khác đối tượng ở chỗ nó chỉ chứa đựng những thuộc tính của
đối tượng mà người học cần xem xét, lĩnh hội, còn những thuộc tính khác
của đối tượng mà người học không cần xem xét, không cần lĩnh hội thù
không đưa vào mô hình.
Trên thực tế, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh
thường ít có điều kiện tiếp cận với đối tượng thật (vật thật), mà thường tiếp cần với
đối tượng thay thế (vật thay thế hay mô hình). Do vậy, mô hình là sản phẩm của
một công đoạn trong quá trình học tập của người học, nhưng mô hình cũng có thể
là phương tiện, là vật thay thế để qua đó người học tiếp cận, nghiên cứu về đối
tượng.
Hành động cụ thể hoá
Qua hành động phân tích và hành động mô hình, người học bước đầu lĩnh
hội được tri thức lý luận và phương pháp khái quát tương ứng được định trước
trong nhiệm vụ học có tính chất như mẫu mới, và như vậy cũng tạo ra được cái
mới ở người học. Nhưng nhiệm vụ thực tiễn cụ thể và nhiệm vụ cùng loại phong
phú, đa dạng nên người học phải dùng phương pháp chung được hình thành qua
các hành động trên để giải quyết nhưng nhiệm vụ đó tới độ nhất đinh thì mới có
được kiến thức và kỹ năng tương ứng một cách chắc chắn. Hành động cụ thể hoá
chính là khâu hành trong học - hành, hay khâu luyện tập trong học - tập.
Hành động kiểm tra và đánh giá
Quá trình người học thực hiện các hành động học tập nêu trên là quá trình
người học tự làm ra sản phẩm học tập của mình. Sản phẩm này một mặt thể hiện
quá trình thực hiện các hành động học (cách học) và kết quả tương ứng cũng như
snr phẩm cuối cùng, mặt khác là cái đọng lại trong mỗi người học như là nhân tố
góp phần tạo nên năng lực mới của các em. Vì vậy, việc kiểm tra, đánh giá và trên
cơ sở đó để điều chỉnh, khắc phục kịp thời những sai sót trong quá trình thực hiện
các hành động học nhằm giải quyết nhiệm vụ cụ thể đặt ra cũng được coi như
thành tố quan trọng không thể thiếu được trong cấu trúc hoạt động học.
Hành động kiểm tra và đánh giá có chức năng định hướng và điều chỉnh hoạt
động học của học sinh. Hành động này đi kèm các hành động khác trong quá trình
học tập của người học từ khi khởi đầu đến khi đạt kết quả cuối cùng. Do vậy, để
việc đành giá kết quả của người học theo đúng quy luật và đạt hiệu quả phải kết
hợp cả đánh giá quá trình và đánh giá kết quả cuối cùng, kết hợp cách đánh giá tự
luận và đánh giá kiểu tắc nghiệm, tuỳ thuộc vào mục đích và điều kiện kiểm tra
đánh giá xác định. Đồng thời hành động kiểm tra đánh giá này cũng có thể tạo nên
động lực học tập cho người học.
Như vậy, hình thành hoạt động học cho người học chính là thực hiện hoạt
động dạy của giáo viên với mục tiêu và những việc làm cụ thể được xác định trước.
Trong quá trình dạy học, việc giáo viên hình thành hoạt động học cho người học là
rất quan trọng, có tính quyết định chất lượng và hiệu quả dạy và học.
3. CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC LĨNH HỘI TRI THỨC, CÁC
PHƯƠNG THỨC HÀNH ĐỘNG VÀ PHƯƠNG THỨC TƯ DUY
Lĩnh hội (thông hiểu, nắm vững) là sự hoà nhập kinh nghiệm mới với kinh
nghiệm đã có trước đây, hoà nhập thông tin mới với thông tin đã biết. Nó là sự
chuyển hoá kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được thành tài sản của cá nhân, nghĩa là
thành thuộc tích của cá nhân.
Lĩnh hội có thể là tự phát hay tự giác. Sự lĩnh hội tự giác có thể do tự học
hay do quá trình dạy học có mục đích đem lại.
Người ta phân biệt các loại lĩnh hội tuỳ theo nội dung được lĩnh hội. Trong
Tâm lý học sư phạm, lĩnh hội thường được phân chia thành sự lĩnh hội tri thức, sự
lĩnh hội các phương thức hành động (kỹ năng, kỹ xảo) và phương thức tư duy. Mỗi
loại hoạt động đòi hỏi những phương thức lĩnh hội đặc trưng riêng biệt.
3.1. Lĩnh hội khái niệm
Khái niệm là toàn bộ những hiểu biết của con người đã được khái quát về
một loại sự vật, hiện tượng nào đó.
Sự lĩnh hội khái niệm là sự phản ánh vào trong ý thức của mỗi người toàn bộ
những hiểu biết mà loài người đã xác định được về một khái niệm nào đó. Sự lĩnh
hội khái niệm của các môn học khác nhau có các đặc trưng khác nhau.
Quá trình xây dựng khái niệm của loài người là quá trình sáng tạo ra khái
niệm đó còn quá trình lĩnh hội khái niệm là quá trình mỗi cá nhân tiếp thu những
khái niệm đó dưới dạng có sẵn đã được xác định. Song như thế không có nghĩa
lĩnh hội là quá trình chuyển tải giản đơn, thụ động từ giáo viên sang người học mà
thực sự nó là một quá trình tư duy tích cực vì người học lĩnh hội kinh nghiệm của
loài bằng kinh nghiệm của mình.
Quá trình lĩnh hội khái niệm được biểu hiện ở hai thành phần sau:
Hiểu khái niệm: Là quá trình hoà nhập khái niệm đó vào hệ thống khái niệm đã
có của bản thân theo một lôgic nhất định.
Vận dụng được khái niệm: Quá trình lĩnh hội khái niệm của mỗi cá nhân diễn ra
theo 4 mức độ sau:
- Lĩnh hội khái niệm thông qua việc hiểu được những dấu hiệu không bản
chất, những kinh nghiệm riêng lẻ của bản thân.
- Lĩnh hội khái niệm thông qua dấu hiện bản chất nhưng không ứng với
khái niệm được lĩnh hội.
- Lĩnh hội khái niệm thông qua việc phản ánh được dấu hiện bản chất của
khái niệm nhưng không dựa trên những kinh nghiệm cảm tính, phong
phú của cá nhân.
- Lĩnh hội khái niệm thông qua việc vừa nắm được dấu hiện bản chất của
khái niệm, vừa vận dụng được chúng vào trong thực tiễn.
3.2. Lĩnh hội các phương thức hành động
Sự lĩnh hội các phương thức hành động là một lĩnh vực đặc biệt của hoạt
động học. Các phương thức hoạt động được người học lĩnh hội sẽ trở thành
kỹnăng, kỹ xảo của họ.
Học thuyết hình thành hành động trí tuệ theo giai đoạn của P.Ia.Ganpêri có
giá trị về mặt nghiên cứu sự lĩnh hội các phương thức hành động. Theo thuyết này,
muốn hình thành một hành động trí tuệ hoàn hảo, nhất nhiết phải tiến hành các giai
đoạn xác định sau đây:
- Giai đoạn làm quen sơ bộ với mục đích của hành động, tạo ra động cơ cần
thiết ở người học.
- Giai đoạn thiết lập sơ đồ của cơ sở định hướng hành động. Cơ sở định
hướng hành động là một hệ thống các vật định hướng và lời chỉ dẫn giúp con
người thực hiện hành động đó. Hệ thống các lời chỉ dẫn và vật định hướng
này có thể được cung cấp cho người học với những tính chất khác nhau và
dưới những dạng khác nhau, hoặc do bản thân học sinh tự thiết lập lấy,
nhưng đó vẫn chỉ là một biểu tượng về hành động sắp tới, về phương thức
thực hiện nó, chứ chưa phải là bản thân hành động.
- Giai đoạn thực hiện hành động dưới dạng vật chất hay vật chất hoá. Ở giai
đoạn này, hành động cần lĩnh hội được thực hiện như là một hành động thực
tế, bên ngoài, với các đồ vật thật (hành động vật chất) hay với các mô hình
như sơ đồ, bản vẽ (hành động vật chất hóa).
- Giai đoạn hình thành hành động ngôn ngữ bên ngoài (nói hoặc viết) mà
không dựa vào các phương tiện vật chất hay vật chất hoá. Ở giai đoạn này,
học sinh phải nói bằng từ của mình (thành tiếng hay viết) tất cả các thao tác
mà nó đã thực hiện theo đúng cơ sở định hướng hành động.
- Giai đoạn hình thành hành động nói thầm bên ngoài. Hành động không diễn
ra cùng với sự nói to hay chữ viết, mà nói thầm cho mình về các thao tác
được tiến hành.
- Giai đoạn thực hiện hành động trong óc, nghĩa là hành động trí tuệ đã được
hình thành.
Quan niệm về sự lĩnh hội theo giai đoạn đã vạch ra được cơ chế phát sinh
các hành động trí tuệ như là sự phản ánh các hành động vật chất. Có thể nghĩ rằng,
mọi hành động mới về nguyên tắc đối với chủ thể đều bắt đầu được lĩnh hội đúng
như quan niệm này. Nhưng tuỳ theo mức độ tích luỹ kinh nghiệm, vốn tri thức và
kỹ năng mà sự lĩnh hội các phương thức hoạt động mới, các hành động mới có thể
diễn ra mà bỏ qua một số giai đoạn, đặc biệt là hành động vật chất hay hành động
nói thầm bên ngoài và bên trong. Hơn nữa, hoạt động tâm lý bên trong sau đó có
thể được thể hiện ra bên ngoài - một cách vật chất. Điều này còn có thể được gây
nên bởi chỗ, các yếu tố hành động mới được giữ gìn trong người học và mọi giai
đoạn đều đã trải qua trước đây rồi. Cho nên, không phải bất cứ ai và bất cứ trường
hợp nào cũng đều phải trải qua 6 giai đoạn hình thành hành động trí tuệ trên đây.
3.3. Sự lĩnh hội phương thức tư duy
Tư duy có vai trò quan trọng trog việc vận dụng các tri thức như là một điều
kiện, một thành phần tất yếu của hoạt động. Vì vậy, việc lĩnh hội các p