Tóm tắt
Vỏ và hạt nhãn là nguồn phế phụ phẩm trong quá trình tiêu thụ. Theo thống kê, 20% nguồn phế phụ
phẩm này được sử dụng làm phân bón, số còn lại có thể là nguồn gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, mục
tiêu của nghiên cứu này là xây dựng được quy trình tận dụng nguồn phế phụ phẩm từ vỏ và hạt nhãn
để trồng nấm sò (Pleurotus ostreatus) nhằm thu sinh khối giàu protein làm nguồn nguyên liệu sản xuất
thức ăn chăn nuôi. Kết quả cho thấy vỏ và hạt nhãn có hàm lượng tinh bột cao 24,16% là nguồn cơ chất
thích hợp cho trồng nấm sò. Khi vỏ và hạt nhãn phối trộn với các thành phần nước 65,77%, cám gạo
4,68% và trấu 1,16% sau đó tiến hành trồng và ươm sợi nấm sò trong 24 ngày sẽ thu được sinh khối
nấm với hàm lượng protein cao 8,78%.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tận dụng vỏ và hạt nhãn để trồng nấm sò (Pleurotus ostreatus) làm nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Tận dụng vỏ và hạt nhãn để trồng nấm sò (Pleurotus
ostreatus) làm nguyên liệu sản xuất thức ĕn chĕn nuôi
Using longan peel and seed by-products for cultivation of
oyster mushroom (Pleurotus ostreatus)-a source of protein
for animal feed
Tĕng Thị Phụng
Email: tangphungcntp@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 2/4/2019
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 24/6/2019
Ngày chấp nhận đĕng: 28/6/2019
Tóm tắt
Vỏ và hạt nhãn là nguồn phế phụ phẩm trong quá trình tiêu thụ. Theo thống kê, 20% nguồn phế phụ
phẩm này được sử dụng làm phân bón, số còn lại có thể là nguồn gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, mục
tiêu của nghiên cứu này là xây dựng được quy trình tận dụng nguồn phế phụ phẩm từ vỏ và hạt nhãn
để trồng nấm sò (Pleurotus ostreatus) nhằm thu sinh khối giàu protein làm nguồn nguyên liệu sản xuất
thức ĕn chĕn nuôi. Kết quả cho thấy vỏ và hạt nhãn có hàm lượng tinh bột cao 24,16% là nguồn cơ chất
thích hợp cho trồng nấm sò. Khi vỏ và hạt nhãn phối trộn với các thành phần nước 65,77%, cám gạo
4,68% và trấu 1,16% sau đó tiến hành trồng và ươm sợi nấm sò trong 24 ngày sẽ thu được sinh khối
nấm với hàm lượng protein cao 8,78%.
Từ khóa: Nấm sò Pleurotus ostreatus; phế phụ phẩm; vỏ và hạt nhãn; thức ĕn chĕn nuôi.
Abstract
Peel and seed of longan are by products for human consumption. According to statistics, 20% of these
by-products has been used as fertilizer. Another part of them is able to cause environmental pollution.
Therefore, the aim of this study is to develop a process for using longan peel and seed by-products in
order to cultivate oyster mushrooms (Pleurotus ostreatus). This gains protein rich biomass as a source
of animal feed. The results showed that the longan peel and seed containing high concentration of
24.16% starch. So they are the suitable substrate source for oyster mushroom cultivation. First, the
longan peel and seed were mixed with water components of 65.77%, 4.68% of rice bran, and the
1.16% of rice husk. This mixture was then used to cultivate oyster mushroom for 24 days that produces
mushroom biomass with 8.78% of protein content.
Keywords: Oyster mushroom (Pleurotus ostreatus); by-product; logan peel and seed; animal feed.
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Nhãn được xem là một loại quả truyền thống
của Việt Nam. Loại cây này được trồng ở các
tỉnh Hưng Yên, Sơn La, Tiền Giang, Bến Tre,
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê nĕm 2018 [1],
sản lượng nhãn cả nước đạt 541,4 nghìn tấn, tính
riêng tại Hưng Yên sản lượng nhãn đạt khoảng
41,5 nghìn tấn, trong đó 60% là bán quả tươi
còn lại chế biến long nhãn khô. Hạt nhãn chiếm
khoảng 29÷35% khối lượng quả. Tuy nhiên, phần
lớn chúng được xem là vật liệu phế thải từ các
nhà máy sản xuất, mỗi nĕm số lượng loại bỏ lên
tới hàng nghìn tấn, khoảng 20% khối lượng được
dùng để sản xuất phân bón, 80% còn lại được
coi là phế phẩm công nghiệp và chưa được xử
lý. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
vỏ và hạt hạt nhãn chứa hàm lượng cao các hợp
chất polysaccharide, polyphenolic và các axit. Đặc
biệt trong hạt nhãn có chứa tới 32,68% là tinh bột
[1]. Nấm là loại cây giàu giá trị dinh dưỡng, đặc biệt
là nấm sò với hàm lượng protein khá cao chiếm
28,52% tổng hàm lượng chất khô trong mẫu nấm,
Người phản biện: 1.TS. Bùi Vĕn Ngọc
2. PGS.TS. Đỗ Thị Bích Thủy
LIÊN NGÀNH HÓA HỌC - CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
87Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
lại dễ trồng [7]. Nấm thường mọc ở nơi ẩm ướt,
phân hủy chất hữu cơ đặc biệt cơ chất chủ yếu là
polysaccharide. Vì vậy, trồng nấm sò có thể được
xem là một cách hiệu quả để xử lý phế phụ phẩm
từ vỏ và hạt nhãn nhằm thu nhận sinh khối có giá
trị dinh dưỡng cao ứng dụng trong ngành chĕn
nuôi được coi là nghiên cứu có ý nghĩa.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Đối tượng sử dụng trong nghiên cứu này là:
- Vỏ và hạt nhãn khô được thu nhận tại Hưng Yên.
- Giống nấm sò Pleurotus ostreatus được cung
cấp tại Viện Di truyền nông nghiệp. Địa chỉ:
Km 2 - đường Phạm Vĕn Đồng - Từ Liêm - Hà Nội.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Quy trình trồng nấm từ vỏ và hạt nhãn
Vỏ và hạt nhãn → Nghiền nhỏ → Phối trộn →
Đóng túi → Thanh trùng → Để nguội → Cấy giống
→ Ươm sợi → Thu sinh khối nấm.
Hình 1. Quy trình trồng nấm thu sinh khối
giàu protein
Vỏ và hạt nhãn đã sấy khô bảo quản nơi
khô ráo để sử dụng dần. Nguyên liệu sau
khi sấy khô được nghiền nhỏ đến kích thước
khoảng1÷3 mm. Nguyên liệu sau khi nghiền được
phối trộn với cám gạo và trấu với tỷ lệ thích hợp
thì được phun ẩm bằng nước vôi trong có pH =
12÷13 đến độ ẩm thích hợp. Sau khi ủ 3 ngày, hỗn
hợp môi trường điều chỉnh pH bằng bột CaCO
3
đến pH = 6, sau đó đưa đi đóng trong túi nilon chịu
nhiệt với khối lượng 1 kg/túi. Các túi môi trường
được đưa đi thanh trùng ở nhiệt độ 121oC trong 30
phút. Sau khi thanh trùng các túi môi trường được
để nguội và cấy giống nấm với lượng giống 2%
khối lượng cơ chất. Nấm sau khi được cấy được
treo trên các giàn, các túi treo cách nhau 5÷7 cm,
nuôi trong điều kiện nhiệt độ thường, phun ẩm
ngày 3 lần sáng, trưa và chiều tối. Theo dõi hàm
lượng protein của sinh khối nấm để đưa ra quy
trình nuôi cấy nấm thích hợp [5, 6].
2.2.2. Bố trí thí nghiệm nghiên cứu thành phần
môi trường nuôi cấy
Nghiên cứu sử dụng phương pháp đáp ứng bề
mặt để tối ưu với yếu tố được theo dõi ảnh hưởng
là độ ẩm cơ chất, cám gạo, trấu với hàm mục tiêu
là protein tổng số. Tỷ lệ hàm lượng nước, cám gạo
và trấu được tính so với vỏ và hạt nhãn. Sau 20
ngày xác định hàm lượng protein để lựa chọn tỷ lệ
thành phần môi trường cho giá thể nấm.
Bảng 1. Bảng thiết kế thực nghiệm
Nhân tố
Nhân
tố gốc
(x)
Biến mã hóa (X)
-1 0 1
Cám gạo (%) x
1
3 4 5
Trấu (%) x
2
1 1,5 2
Nước (%) x
3
60 65 70
Ma trận quy hoạch thực nghiệm thể hiện trên
bảng 2.
Bảng 2. Ma trận quy hoạch thực nghiệm
Số
TN
Biến chuẩn Biến thực
Trấu
(%)X
1
X
2
X
3
Nước
(%)
Cám
gạo (%)
1 -1 -1 -1 60 3 1
2 1 -1 -1 70 3 1
3 -1 1 -1 60 5 1
4 1 1 -1 70 5 1
5 -1 -1 1 60 3 2
6 1 -1 1 70 3 2
7 -1 1 1 60 5 2
8 1 1 1 70 5 2
9 -1,682 0 0 56,591 4 1,5
10 1,682 0 0 73,409 4 1,5
11 0 -1,682 0 65 2,318 1,5
12 0 1,682 0 65 5,682 1,5
13 0 0 -1,682 65 4 0,659
14 0 0 1,682 65 4 2,341
15 0 0 0 65 4 1,5
16 0 0 0 65 4 1,5
17 0 0 0 65 4 1,5
2.2.3. Nghiên cứu thời gian thu sinh khối
Để nghiên cứu thời gian thu sinh khối nấm thí
nghiệm được bố trí như sau: nguyên liệu được phối
trộn theo kết quả nghiên cứu mục 2.2.2, sau đó tiếp
tục tiến hành theo quy trình hình 1 và nuôi trong các
khoảng thời gian 18, 20, 22, 24 và 26 ngày. Tiến
hành lấy mẫu phân tích hàm lượng protein để lựa
chọn thời gian nuôi cấy thích hợp [8].
2.2.4. Các phương pháp phân tích
- Tinh bột: định lượng theo phương pháp thủy
phân bằng axit [4].
- Cellulose: định lượng dựa trên nguyên tắc
cellulose bền với axit mạnh và kiềm mạnh [4].
- Độ ẩm: sấy đến khối lượng không đổi [4].
- Định lượng lipid bằng phương pháp Soxhlet [4].
- Protein: định lượng bằng phương pháp Bradford
(Bradford, 1976) [4, 9].
88
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
- Xử lý mẫu: Cân 2 g mẫu đã nghiền nhỏ hòa tan
trong 5 ml dung dịch đệm phosphate (pH=7,6),
sau đó mẫu được đưa đi li tâm lạnh ở 8000 vòng
trong 20 phút. Mẫu sau khi ly tâm được tách định
lượng bằng dung dịch đệm phosphate lên 5 ml và
bảo quản trong tủ lạnh ở 4oC để dùng dần trong
các thí nghiệm.
- Tiến hành: hút 30 µl dung dịch mẫu, thêm vào
70 µl nước cất và 2,9 ml dung dịch Coosmassic
Brillaint Blue được tổng thể tích là 3 ml. Để hỗn
hợp 5 phút ở nhiệt độ phòng và tiến hành đo mật
độ quang tại bước sóng 595 nm. Nồng độ đo được
có đơn vị là µg/ml.
- Xây dựng đường chuẩn: lấy cân 1 mg albumin
bằng cân phân tích, pha trong 1 ml nước cất,
lắc đều cho tan và giữ ở -20oC. Khi dùng pha
loãng ra 100 lần, được dung dịch có nồng độ
10 µg/ml. Làm tương tự như mẫu phân tích sau
đó xây dựng đường chuẩn và xác định được
phương trình hồi quy.
- Tính hàm lượng protein trong mẫu:
Từ phương trình hồi quy tuyến tính được a µg/ml
protein trong mẫu
( )
5 3 1000
100 25 %
2 1000 30
a
a
⋅ ⋅
⋅ ⋅ =
⋅
2.2.5. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Design Expert 11.0 để thiết kế
thí nghiệm quy hoạch thực nghiệm và phần mềm
SPSS 16.0 để xử lý số liệu.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phân tích một số thành phần hóa học
3.1.1. Trong vỏ và hạt nhãn
Xác định thành phần tinh bột, cellulose, lipid,
protein và ẩm trong vỏ và hạt nhãn khô cho kết
quả trong bảng 3.
Bảng 3. Kết quả xác định một số thành phần hóa
học trong vỏ và hạt nhãn khô
TT Thành phần Hàm lượng
1 Tinh bột (% CK) 24,16
2 Cellulose (% CK) 65,86
3 Độ ẩm (%) 14,34
4 Lipid (% CK) 0,7
5 Protein (% CK) 2,41
Từ kết quả bảng 3 cho thấy độ ẩm của vỏ và hạt
nhãn khô tương đối thấp, do đó thuận lợi cho
quá trình bảo quản. Bởi nhãn là sản phẩm nông
nghiệp có tính thời vụ, do đó nguyên liệu vỏ và
hạt nhãn cần được bảo quản trong kho để thuận
lợi cho quá trình trồng nấm. Cellulose là cơ chất
cho nấm sò phát triển. Kết quả phân tích cho thấy
vỏ và hạt nhãn có chứa hàm lượng cellulose cao
65,86%, do đó cho thấy nguyên liệu lựa chọn phù
hợp cho quá trình trồng nấm. Ngoài ra, trong vỏ
và hạt nhãn chứa hàm lượng tinh bột cao, do đó
không cần bổ sung tinh bột từ cám ngô, chỉ cần bổ
sung các thành phần dinh dưỡng và khoáng chất
từ cám gạo, khi phối trộn đồng thời với lượng tinh
bột này của nguyên liệu cần bổ sung trấu giúp cho
cơ chất trồng nấm được xốp hơn.
3.1.2. Trong cám gạo
Kết quả phân tích thành phần hóa học cám gạo
được thể hiện trên bảng 4.
Bảng 4. Kết quả xác định một số thành phần hóa
học trong cám gạo
TT Thành phần Hàm lượng
1 Tinh bột (%CK) 23,21
2 Cellulose (%CK) 7,12
3 Độ ẩm (%) 11,87
4 Lipid (%CK) 14,45
5 Protein (%CK) 15,10
Kết quả bảng 4 cho thấy cám gạo có chứa nhiều
dinh dưỡng đặc biệt là giàu tinh bột và protein. Đây
là thành phần quan trọng cung cấp dinh dưỡng
cho nấm sò phát triển.
3.2. Thành phần môi trường nuôi cấy
Từ thiết kế thí nghiệm nghiên cứu tỷ lệ các thành
phần nguyên liệu cho nuôi sinh khối nấm sò, chúng
ta thu được kết quả trong bảng 5.
Nhập số liệu thí nghiệm ở bảng 5 vào phần mềm
Design-Experts 11.0 (mục Central Composite).
Design-Experts hiển thị các phương trình hồi quy
thực nghiệm biểu diễn ảnh hưởng đồng thời của
ba yếu tố độ ẩm, tỷ lệ cám và trấu đều ảnh hưởng
đến hàm lượng protein của sinh khối nấm.
Bảng 5. Kết quả xác định độ ẩm, tỷ lệ cám gạo và trấu so với khối lượng vỏ và hạt nhãn
Số TN
Biến chuẩn Biến thực Hàm lượng protein
(%)X
1
X
2
X
3
Nước (%) Cám gạo (%) Trấu (%)
1 -1 -1 -1 60 3 1 6,25
2 1 -1 -1 70 3 1 6,55
3 -1 1 -1 60 5 1 7,22
LIÊN NGÀNH HÓA HỌC - CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
89Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Số TN Biến chuẩn Biến thực Hàm lượng protein
(%)X
1
X
2
X
3
Nước (%) Cám gạo (%) Trấu (%)
4 1 1 -1 70 5 1 7,68
5 -1 -1 1 60 3 2 6,08
6 1 -1 1 70 3 2 6,31
7 -1 1 1 60 5 2 7,22
8 1 1 1 70 5 2 7,56
9 -1,682 0 0 56,591 4 1,5 6,12
10 1,682 0 0 73,409 4 1,5 5,82
11 0 -1,682 0 65 2,318 1,5 6,56
12 0 1,682 0 65 5,682 1,5 8,22
13 0 0 -1,682 65 4 0,659 8,02
14 0 0 1,682 65 4 2,341 7,53
15 0 0 0 65 4 1,5 8,47
16 0 0 0 65 4 1,5 8,46
17 0 0 0 65 4 1,5 8,49
Hình 2. Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của độ ẩm,
tỷ lệ cám và trấu đến hàm lượng protein
Bảng 5. (Tiếp theo)
Phương trình hồi quy:
Y = 8,48 + 0,06X
1
+ 0,533X
2
-0,099X
3
+ 0,034X
1
X2 -0,024X
2
X
3
+0,036X
1
X
3
-0,907X
1
2-0,405X
2
2-
0,269X
3
2,
R
2
2 = 0,979.
Từ đồ thị hình 2 và phương trình hồi quy ta thấy
cả ba yếu tố tỷ lệ nước, tỷ lệ cám và trấu đều ảnh
hưởng đến hàm lượng protein của sinh khối nấm.
Với tỷ lệ nước càng lớn làm cho giá thể nuôi trồng
quá ẩm dễ nhiễm các sinh vật gây hại, nấm kém
phát triển. Nếu tỷ lệ nước quá thấp, giá thể khô
tuy các sinh vật gây hại ít gây ảnh hưởng nhưng
cũng lại làm cho nấm sò phát triển chậm sinh
tổng hợp protein thấp. Cám gạo là nguồn cung
cấp các thành phần dinh dưỡng dồi dào và đầy
đủ cho nấm phát triển, đặc biệt là thành phần
khoáng chất và các vitamin. Tuy nhiên, giá thành
của cám gạo thường cao gây ảnh hưởng đến giá
thành của sản phẩm. Chính vì vậy, lựa chọn hàm
lượng cám gạo vừa đủ nhưng vẫn giúp nấm sò
phát triển sinh tổng hợp protein cao nhất là mục
đích của quá trình. Trấu tuy không cung cấp dinh
dưỡng tốt cho nấm sò phát triển nhưng góp phần
không nhỏ cho giá thể của nấm có độ xốp tốt, đặc
biệt trong môi trường giàu tinh bột bắt buộc phải
bổ sung thêm hàm lượng trấu. Tuy nhiên, nếu bổ
sung hàm lượng trấu quá thấp không đạt được
độ xốp của giá thể nhưng bổ sung thêm trấu quá
nhiều làm giá thể không đủ dinh dưỡng cho nấm
phát triển. Vì vậy, cần lựa chọn hàm lượng trấu bổ
sung hợp lý.
Chọn mức độ quan trọng của các mục tiêu là 5+, kết
quả tối ưu thu được: tỷ lệ nước 65,77%, tỷ lệ cám
gạo 4,68% và tỷ lệ trấu 1,16%. Ở giá trị tối ưu, hàm
lượng protein trong cơ chất thu được là 8,58%.
90
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Hình 3. Giá trị mong đợi của hàm mục tiêu
Để kiểm chứng sự chính xác của mô hình xây
dựng so với thực nghiệm, nhóm tác giả lấy giá trị
tối ưu thu được để trồng nấm thu sinh khối. Hàm
lượng protein thu được của sinh khối là 8,60. Như
vậy có sự phù hợp cao giữa mô hình xây dựng với
thực nghiệm. Điều đó cho phép có thể sử dụng mô
hình này để đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng
nước, tỷ lệ cám gạo và trấu (X
1
, X2, X3) đến hàm lượng protein của sinh khối nấm. Kết quả này cũng
tương đồng với kết quả nghiên cứu của nhóm tác
giả Mai Hương Trà và cộng sự thì hàm lượng cám
gạo thích hợp cho nấm sò vàng là 4÷6% [2]. Trên
cơ sở đó lựa tỷ lệ thành phần giá thể nuôi trồng
nấm sò như sau: tỷ lệ nước 65,77%, tỷ lệ cám gạo
4,68% và tỷ lệ trấu 1,16% cho quy trình đề xuất.
Sau khi xây dựng được công thức phối trộn của
môi trường trồng nấm:
- Vỏ và hạt nhãn: 100%
- Nước: 65,77%
- Cám gạo: 4,68%
- Trấu 1,16%
Từ công thức trên kết hợp với bảng 3 và bảng 4 về
thành phần hóa học có trong vỏ, hạt nhãn và cám
gạo ta xác định được hàm lượng protein trong giá
thể trồng nấm như sau:
Hàm lượng protein=15,1 4,68 100 2,41 1,82%
171,61
⋅ + ⋅
=
Trong đó:
171,61 là tổng phần trĕm các thành phần trong
môi trường. Trong cám chứa 15,1% protein; trong
vỏ và hạt nhãn chứa 2,41% protein; trong trấu gần
như không chứa protein.
3.3. Thời gian nuôi cấy
Kết quả nghiên cứu thời gian nuôi nấm theo bố trí
mục 2.2.3 thu được kết quả trên bảng 6.
Bảng 6. Kết quả nghiên cứu thời gian nuôi nấm
TT Thời gian (ngày) Hàm lượng protein (%)
1 18 8,21±0,02
2 20 8,58±0,05
3 22 8,67±0,05
4 24 8,78±0,07
5 26 8,80±0,02
Kết quả khi xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0 cho
thấy hàm lượng protein các ngày từ 18 đến 24
ngày có sự khác nhau có nghĩa ở mức ý nghĩa
α = 0,05, còn ngày 26 và ngày 24 không có sự
khác nhau về hàm lượng protein ở mức ý nghĩa.
Kết quả này cho thấy khi thời gian nuôi cấy càng
dài, hàm lượng protein tĕng, tuy nhiên khi sợi nấm
mọc lan hết giá thể chuẩn bị hình thành quả thể
thì hàm lượng protein không tĕng nữa. Như vậy,
có thể thấy trong thời gian đầu nấm sò phát triển
sử dụng dinh dưỡng từ cơ chất tĕng sinh khối tích
lũy protein, sau khi tích lũy đủ nấm sò chuẩn bị
sử dụng dinh dưỡng tích lũy được hình thành quả
thể. Hàm lượng protein sau đó trong giá thể sẽ
giảm đi. Vì vậy, sau 24 ngày có thể thu giá thể
giàu protein của nấm sò để làm nguyên liệu sản
xuất thức ĕn chĕn nuôi. Cũng theo kết quả nghiên
cứu của nhóm tác giả Lê Vĩnh Thúc khi theo dõi sự
phát triển của hệ sợi nấm sò nâu khi lan kín bịch
phôi trên các giá thể khác nhau cho thấy với mùn
cưa là 24 ngày, bã mía là 27 ngày, rơm 30 ngày, và
vụn dừa 28 ngày thì kết quả tương đồng với thời
gian khi sử dụng vỏ và hạt nhãn [3].
Với quy trình sản xuất trên sinh khối thu được theo
kết quả bảng 6 cho thấy hàm lượng protein thu
được là 8,78%. Hàm lượng protein ban đầu trong
giá thể trồng nấm là 0,59% bổ sung làm nguồn
dinh dưỡng để nấm sinh trưởng và tĕng sinh khối,
do đó chứng tỏ hàm lượng protein mà nấm sò sinh
ra trong quá trình tĕng sinh là 6,96%.
Trong các nghiên cứu gần đây chưa có nghiên
cứu nào xác định hàm lượng protein trong sinh
khối nuôi trồng nấm sò, tuy nhiên theo nghiên
cứu của Tsegaye và cộng sự (2017) cho thấy khi
trồng nấm sò trên giá thể bổ sung bã cà phê thu
được hàm lượng nấm cao nhất 790 g nấm tươi/1
kg giá thể khô, trong đó nhóm tác giải Kumela D.
Tolera và Solomon Abera (2017) cho thấy khi phân
tích mẫu nấm sò tươi chưa qua xử lý, hàm lượng
protein chiếm 28,52% chất khô. Nếu độ ẩm của
nấm sò tươi trung bình 85%, như vậy hàm lượng
protein khi thu quả thể nấm ta thu được là [7,8]:
790 15 28 52
100 3,38%
100 100 1000
⋅ ⋅ ⋅
⋅ =
⋅ ⋅
Như vậy, một phần lớn lượng protein còn lại trong
giá thể sau khi thu quả thể nấm chưa được tận
LIÊN NGÀNH HÓA HỌC - CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
91Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
dụng. Vì vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy có ý
nghĩa rất lớn.
3.4. Đề xuất quy trình nuôi cấy
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi đề xuất quy
trình trồng nấm sò từ phế, phụ phẩm vỏ và hạt
nhãn trên sơ đồ hình 4.
Vỏ và hạt nhãn → Nghiền nhỏ → Phối trộn →
Đóng túi → Thanh trùng → Để nguội → Cấy giống
→ Ươm sợi → Thu sinh khối nấm.
Hình 4. Quy trình trồng nấm thu sinh khối
giàu protein
Vỏ và hạt nhãn đã sấy khô nghiền nhỏ đến kích
thước khoảng 1÷3 mm. Nguyên liệu sau khi nghiền
được phối trộn với tỷ lệ nước 65,77%, tỷ lệ cám
gạo 4,68% và tỷ lệ trấu 1,16% trong đó nước được
hòa với vôi để có pH=12÷13. Sau khi ủ 3 ngày, hỗn
hợp môi trường điều chỉnh pH bằng bột CaCO
3
đến pH=6, sau đó đưa đi đóng trong túi nilon chịu
nhiệt với khối lượng 1 kg/túi. Các túi môi trường
được đưa đi thanh trùng ở nhiệt độ 1210C trong
30 phút. Sau khi thanh trùng, các túi môi trường
được để nguội và cấy giống nấm với lượng giống
2% khối lượng cơ chất. Nấm sau khi được cấy
được treo trên các giàn, các túi treo cách nhau
5÷7 cm, nuôi trong điều kiện nhiệt độ thường phun
ẩm ngày 3 lần sáng, trưa và chiều tối đến 24 ngày
thì thu sinh khối, sấy khô dùng làm nguyên liệu
sản xuất thức ĕn chĕn nuôi.
4. KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy
vỏ và hạt nhãn là nguồn nguyên liệu thích hợp
cho quá trình trồng nấm sò. Vỏ và hạt nhãn sau
khi nghiền được trộn với các thành phần nước
65,77%, cám gạo 4,68% và trấu 1,16% để làm giá
thể trồng nấm sò theo theo quy trình đề xuất. Nấm
sau khi cấy được nuôi trong 24 ngày trong điều
kiện thích hợp thu được sinh khối nấm có hàm
lượng protein cao 8,78% sử dụng tốt cho sản xuất
thức ĕn chĕn nuôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Hồng Giang, Trà Thị Ngọc (2015),
Khảo sát quá trình thủy phân tinh bột của một
số loại hạt và củ, Luận vĕn tốt nghiệp đại học,
Trường Đại học Cần Thơ.
[2] Nguyễn Thị Thơm, Mai Hương Trà, Nguyễn
Thành Hưng (2018), Nghiên cứu trồng nấm bào
ngư vàng Pleurotus citrinopileutus bằng phụ
phẩm nông nghiệp,Tạp chí Khoa học và Giáo
dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-
1612, Số 01(45): trang 138-148.
[3] Lê Vĩnh Thúc, Mai Vũ Duy và Nguyễn Thị Ngọc
Minh (2015), So sánh một số loại cơ chất tiềm
nĕng trồng nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-
caju) ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chı́ Khoa
học Trường Đai học Cần Thơ. Nông nghiệp, Thủy
sản và Công nghệ Sinh học 39, trang 36-43.
[4] Nguyễn Vĕn Mùi (2007), Thực hành hóa sinh
học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[5] Asmamaw Tesfaw, Abebe Tadesse, Gebre
Kiros (Jan-Feb, 201