Gần đây, vấn đề chính sách dân tộc ở Nghệ An được dư luận xã hội và nhiều người quan tâm
khi những sai phạm trong Đề án Hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội dân tộc Ơ Đu tỉnh Nghệ An giai
đoạn 2016-2025 bị phát hiện và xử lý. Đó cũng là một sự cảnh tỉnh quan trọng cho việc thực hiện
chính sách dân tộc trong cả nước nói chung chứ không chỉ riêng Nghệ An. Tuy nhiên, để hiểu
hơn vấn đề, chúng ta cần đặt sự cố đó trong một bối cảnh rộng lớn hơn về công tác dân tộc. Đất
nước đang đứng trước những biến đổi to lớn, vừa là thành quả vừa là hệ quả của công cuộc đổi
mới. Công tác dân tộc dù rất được quan tâm nhưng nhìn chung vẫn chưa thay đổi kịp so với sự
thay đổi của thực tiễn cuộc sống. Vậy nên, công tác dân tộc đang đối diện với nhiều thách thức
lớn mà nếu không vượt qua thì trong giai đoạn tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Qua phân tích những
thách thức trong công tác dân tộc ở Nghệ An, chúng tôi muốn thảo luận thêm về những hướng đi
mới cho công tác dân tộc trong giai đoạn tới.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thách thức trong công tác dân tộc ở Nghệ An hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [24]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
n Bùi Minh Hào
Thách thức
trong công tác dân tộc ở Nghệ An hiện nay
Gần đây, vấn đề chính sách dân tộc ở Nghệ An được dư luận xã hội và nhiều người quan tâm
khi những sai phạm trong Đề án Hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội dân tộc Ơ Đu tỉnh Nghệ An giai
đoạn 2016-2025 bị phát hiện và xử lý. Đó cũng là một sự cảnh tỉnh quan trọng cho việc thực hiện
chính sách dân tộc trong cả nước nói chung chứ không chỉ riêng Nghệ An. Tuy nhiên, để hiểu
hơn vấn đề, chúng ta cần đặt sự cố đó trong một bối cảnh rộng lớn hơn về công tác dân tộc. Đất
nước đang đứng trước những biến đổi to lớn, vừa là thành quả vừa là hệ quả của công cuộc đổi
mới. Công tác dân tộc dù rất được quan tâm nhưng nhìn chung vẫn chưa thay đổi kịp so với sự
thay đổi của thực tiễn cuộc sống. Vậy nên, công tác dân tộc đang đối diện với nhiều thách thức
lớn mà nếu không vượt qua thì trong giai đoạn tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Qua phân tích những
thách thức trong công tác dân tộc ở Nghệ An, chúng tôi muốn thảo luận thêm về những hướng đi
mới cho công tác dân tộc trong giai đoạn tới.
1. Thực trạng công tác dân tộc ở Nghệ An hiện nay
Để hiểu hơn về công tác dân tộc ở Nghệ An hiện
nay như thế nào thì cũng cần trình bày vài nét sơ qua
về bức tranh dân tộc ở Nghệ An. Trước đây, người ta
vẫn tập trung các mối quan tâm vào 5 dân tộc thiểu số
chính sinh sống trên địa bàn Nghệ An là Thái, Khơ
Mú, Thổ, Mông và Ơ Đu. Ngoài người Kinh sống tập
trung ở đồng bằng và trung du thì đây là các dân tộc
đã sinh sống khá lâu đời trên đất Nghệ An. Họ sinh
sống chủ yếu ở vùng núi cao, tập trung vào các huyện
như Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn,
Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa
Đàn... Họ chủ yếu sống trong các bản và
xen kẽ lẫn nhau nên có sự giao lưu, tiếp
xúc văn hóa khá mạnh mẽ. Từ khoảng
những năm 60 của thế kỷ XX có nhiều
luồng người Kinh di cư từ miền xuôi lên
để xây dựng kinh tế mới và nhiều vấn đề
khác nhau. Điều này làm thay đổi khá
nhiều về bức tranh dân tộc ở Nghệ An. Từ
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [25]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đây, người Kinh di cư lên miền núi ngày càng nhiều
và sống xen kẽ ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhiều
nhất ở các thị trấn, các trung tâm của các xã hay ven
các đường giao thông chính. Trong vài ba thập kỷ trở
lại đây, sự di động xã hội ngày càng lớn hơn. Quá
trình di cư trở nên mạnh mẽ hơn không chỉ theo một
chiều từ miền xuôi lên miền núi mà theo nhiều chiều
khác nhau, không chỉ nội tỉnh mà còn di cư ngoại
tỉnh, thậm chí là ra nước ngoài theo những con đường
khác nhau. Bức tranh dân tộc Nghệ An lại càng trở
nên đa dạng và phức tạp hơn. Theo thống kê của Ban
Dân tộc tỉnh Nghệ An thì đến năm 2018, trên địa bàn
tỉnh có 39 dân tộc cùng sinh sống. Nghĩa là ngoài
người Kinh và 5 dân tộc thiểu số đã sinh sống lâu đời
thì mới có thêm 33 nhóm tộc người mới di cư đến
sinh sống trong tỉnh. Cũng phải nói thêm rằng, sự
thống kê này mang tính hiện diện, có những nhóm
chỉ có mấy hộ gia đình mới di cư vào đây, có những
nhóm có vài ba chục hộ gia đình.
Về cơ bản, vùng dân tộc thiểu số ở Nghệ An hiện
nay vẫn còn nghèo khó. Và phần lớn các chính sách
dân tộc trong nhiều năm qua tập trung vào việc xóa
đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người dân vùng dân tộc thiểu
số. Đây cũng là nội dung trọng tâm của công tác dân
tộc ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng.
Công tác dân tộc được hiểu là những hoạt động quản
lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo
điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát
triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Sự thể hiện quan trọng nhất
của công tác dân tộc là xây dựng và thực hiện các
chính sách dân tộc. Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-
CP của Chính phủ, chính sách dân tộc được phân
chia thành 13 nhóm chính sách và liên quan đến 16
Bộ, ngành cấp Trung ương triển khai chỉ đạo thực
hiện. Hiện nay, cả nước có 96 chính sách được thể
hiện qua 152 văn bản đang có hiệu lực chỉ đạo thực
hiện chung cho các địa phương trong cả nước. Đây
cũng là cơ sở nền tảng để các địa phương xây dựng
các chính sách riêng tùy vào điều kiện đặc thù của
địa phương. Riêng Nghệ An hiện nay, chính sách
dân tộc còn có hiệu lực trên địa bàn tỉnh có tới 70
văn bản của Trung ương, 12 văn bản của tỉnh liên
quan trực tiếp đến 14 Sở, Ban, Ngành chỉ đạo thực
hiện. Điều đó cho thấy có cả một khối chính sách
dân tộc khổng lồ đang được thực hiện ở
vùng dân tộc thiểu số của tỉnh.
Nhưng nhìn chung, vùng dân tộc ở
miền núi Nghệ An vẫn là một khu vực
nghèo đói với tỷ lệ hộ nghèo cao, hàng
năm vẫn phải nhận viện trợ từ Trung
ương và các khu vực khác trong việc xóa
đói giảm nghèo. Dù đời sống người dân
được cải thiện, cơ sở hạ tầng ngày càng
được nâng cao, nhưng sự phát triển vẫn
chậm chạp và thiếu bền vững. Bằng
chứng là đời sống người dân được cải
thiện nhờ vào sự hỗ trợ từ các chính sách
hơn là quá trình phát triển mang lại. Cơ
sở hạ tầng được nâng cấp nhưng lại chưa
phát triển được nội lực tại chỗ. Đặc biệt,
kinh tế - xã hội phát triển vẫn còn chậm
trong khi văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số lại bị mai một, mất mát
nhanh chóng. Đời sống người dân được
nâng cao nhưng khoảng cách giàu nghèo
cũng giãn ra, hình thành những nguy cơ
gây xung đột xã hội. Đến năm 2020,
nhiều chính sách đi đến giai đoạn cuối,
hoặc cũng kết thúc một giai đoạn triển
khai thì việc nhìn nhận lại tính hiệu quả
của nó là cần thiết.
Thực tế cho thấy có nhiều chính sách
đã thực hiện nhưng hiệu quả rất thấp. Như
Nghị định 75/2015/NĐ-CP về cơ chế,
chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn
với chính sách giảm nghèo nhanh, bền
vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số
giai đoạn 2015-2020 thiếu hiệu quả vì việc
giao đất, giao rừng chưa hợp lý và lại liên
quan đến nhiều ban ngành khác nhau:
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài
nguyên Môi trường, Ngân hàng Chính
sách Xã hội nên quá trình triển khai vẫn bị
chậm trễ do trục trặc ở khâu này, khâu kia.
Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định
canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu
số theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg,
Quyết định số 33/2013/QĐ-TTg (nay
được tiếp tục thực hiện theo Quyết định số
2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 của Thủ
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [26]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
tướng Chính phủ) là cơ sở để địa phương
ban hành hàng loạt chính sách khác, như:
Quyết định số 559/QĐ-UBND-TM ngày
27/02/2008 của UBND tỉnh phê duyệt sơ
bộ nội dung 12 dự án định canh, định cư
tập trung; Quyết định số 5562/QĐ-
UBND-TM ngày 09/12/2008 của UBND
tỉnh về phê duyệt danh mục 33 điểm định
canh, định cư xen ghép; Quyết định số
3102/QĐ-UBND phê duyệt Đề án thực
hiện chính sách theo Quyết định số
755/QĐ-TTg để thực hiện hỗ trợ các nội
dung: Đất sản xuất, nước sinh hoạt, đào
tạo nghề, chuyển đổi nghề, xuất khẩu lao
động, khoanh nuôi, bảo vệ rừng và trồng
rừng; Quyết định số 96/2014/QĐ-UBND
ngày 18/12/2014 quy định mức bình quân
diện tích đất sản xuất trên địa bàn tỉnh
Nghệ An để thực hiện chính sách theo
Quyết định số 755/QĐ-TTg Các chính
sách tái định cư dù đã bố trí lại địa điểm
sinh sống cho người dân nhưng còn nhiều
bất cập, do đó ở nhiều điểm tái định cư
người dân bỏ về quê cũ, gây nên những
xáo trộn xã hội nhất định. Những người ở
lại cũng chưa có được cuộc sống ổn định
do bất cập trong việc nhà ở sau nhiều năm
bị hư hại, thiếu đất, nước để canh tác
Hay như Đề án Hỗ trợ phát triển kinh tế -
xã hội dân tộc Ơ Đu tỉnh Nghệ An giai
đoạn 2016-2025, được ban hành từ năm
2017 nhưng phải đến cuối năm 2019 mới
bắt đầu thực hiện. Ngay cả chương trình
135, một chương trình mang tầm chiến
lược quốc gia với nguồn kinh phí khổng
lồ và được giải ngân tương đối đầy đủ
trong số các chương trình, chính sách
dành cho đồng bào vùng sâu vùng xa
nhưng hiệu quả vẫn chưa tương xứng với
sự đầu tư của nhà nước và sự mong chờ
của người dân.
Trong các chính sách, Chương trình
phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền
núi (gọi tắt là Chương trình 135) triển
khai từ năm 1998 là có nhiều ảnh hưởng
Một số hình ảnh về các dân tộc thiểu số chính sinh sống
trên địa bàn ở Nghệ An:
Đồng bào dân tộc Thái
Đồng bào dân tộc Mông
Đồng bào dân tộc Thổ
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [27]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
tích cực nhất đến sự phát triển của các dân tộc thiểu
số ở miền núi thông qua đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, làm thay đổi căn bản bộ mặt miền núi. Hay ở cấp
độ thấp hơn, như Quyết định 84/2006/QĐ-UBND tỉnh
Nghệ An về chính sách hỗ trợ bảo tồn phát triển văn
hóa các dân tộc Nghệ An lại thu được nhiều kết quả
tích cực từ việc tổ chức các lớp học tiếng Thái, Mông
cho đồng bào, mở các lớp dạy sử dụng các nhạc cụ
truyền thống dân tộc, các lớp đào tạo dân ca, dân vũ
các tộc người, tổ chức hội diễn Văn hóa các dân tộc
thiểu số Nghệ An 5 năm/2 lần Nhìn chung, nếu theo
thực tiễn Nghệ An thì sự đa dạng về chính sách cũng
như quá trình thực hiện các chính sách ngày càng
bài bản hơn là những ưu điểm lớn trong phát triển
miền núi. Nhưng đó cũng là nhược điểm của chính
sách miền núi. Vì quá nhiều chính sách phát triển,
nhiều khi lại chồng chéo lên nhau, có nhiều chính
sách đưa ra nhưng không thực hiện được vì còn
thiếu nguồn tài chính.
2. Thách thức trong công tác dân tộc ở Nghệ An
hiện nay
2.1. Quá nhiều chính sách chồng chéo lên nhau
Như đã trình bày ở trên, cùng một lúc thực thi 96
chính sách với 152 văn bản là một thách thức lớn. Ở
Nghệ An cũng phải thực thi 82 văn bản chính sách của
Trung ương lẫn địa phương liên quan đến nhiều Sở,
Ban, Ngành khác nhau, nhiều chủ đầu tư và cơ quan
chủ quản khác nhau. Với một hệ thống chính sách dày
đặc và chồng chéo như đã kể trên thì việc thực hiện
sao cho minh bạch, hợp lý và hiệu quả là
một thách thức cho mọi địa phương. Có
những vấn đề, nội dung nằm trong diện
tác động của nhiều chính sách. Ví dụ
người Ơ Đu ở bản Văng Môn hiện nay
chẳng hạn, thuộc nhóm dân tộc thiểu số
rất ít người, lại sinh sống ở địa bàn thuộc
vùng 30a nên có rất nhiều chính sách
đang thực hiện. Từ các chính sách thuộc
Chương trình 135, chính sách thuộc đề
án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, chính sách dành cho nhóm tái định
cư, rồi chính sách thuộc đề án bảo tồn và
phát huy các giá trị nghệ thuật trình diễn
của các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, rồi
chính sách xây dựng nông thôn mới. Có
nhiều nội dung, nhất là liên quan đến cơ
sở vật chất của người Ơ Đu ở Văng Môn
được quy định đến trong nhiều chính
sách. Mà quy định trong các chính sách
này lại khác nhau nhiều nên nhiều khi
cán bộ địa phương không biết xem xét và
xử lý theo quy định của chính sách nào.
Không chỉ chồng chéo về nội dung mà
còn chồng chéo về công tác quản lý, thực
hiện khi các chính sách khác nhau do các
cơ quan chủ quản khác nhau, các chủ đầu
tư khác nhau và nhiều bên liên quan
khác. Nó làm cho quá trình thực hiện
Làm sao để người dân tộc thiểu số tham gia thật sự vào việc thực hiện các chính sách dân tộc là vấn đề khó khăn
(Người dân tộc Thái ở bản Na Sai, xã Hạnh Dịch, Quế Phong trao đổi về việc bảo tồn nghệ thuật trình diễn dân gian)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [28]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
chính sách trở nên phức tạp. Dù các
chính sách được ban hành đều đưa ra
những hướng dẫn thực hiện nhưng vào
thực tiễn vẫn khó, nhất là việc làm sao
cho người dân hiểu và thực hiện theo khi
mà có quá nhiều chính sách liên quan với
nhau. Bên cạnh đó, các chủ trương chính
sách này thường liên quan đến nhiều cơ
quan, ban ngành khác nhau nên quá trình
thực hiện nếu không phối hợp ăn ý sẽ bị
chậm trễ, kết quả hạn chế. Ví dụ như việc
việc xây dựng và trang bị cơ sở vật chất
cho nhà văn hóa cho người Ơ Đu ở Văng
Môn liên quan đến cả Đề án hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội do Ban Dân tộc là
chủ đầu tư, vừa liên quan đến Đề án bảo
tồn, phát huy giá trị nghệ thuật biểu diễn
các dân tộc thiểu số Nghệ An do Sở Văn
hóa Thể thao làm chủ đầu tư nên mới có
chuyện nhà cửa chưa xây dựng xong
nhưng nhiều trang thiết bị đắt tiền đã
mua về để vậy.
Sự phức tạp và chồng chéo lên nhau
của hệ thống chính sách làm cho quá
trình giải ngân gặp khó khăn và thiếu
hiệu quả. Còn những người làm công tác
quản lý và thực hiện chính sách cũng gặp
khó khăn vì quá phức tạp, khó nắm bắt
hết. Sự chồng chéo cũng là nguyên nhân
tạo nên nhiều chỗ mập mờ, là mảnh đất
để nhiều người lợi dụng chính sách mà
trục lợi cho riêng mình. Còn với người
dân, sự chồng chéo phức tạp của chính
sách cũng làm cho họ lúng túng khi tìm
hiểu về quyền lợi của mình.
2.2. Nguồn kinh phí không đảm bảo
Thách thức thứ hai phải đề cập đến là
vấn đề kinh phí, là nguồn tài chính để
thực hiện chính sách. Tất cả các chính
sách đều thiếu nguồn kinh phí để thực
hiện theo đúng quy định được phê duyệt.
Không phải thiếu ít mà thiếu trầm trọng,
tỷ lệ giải ngân so với nguồn kinh phí
được duyệt rất thấp. Tức là khi xây dựng
chính sách, người ta chưa tính hết tính
khả thi, nguồn lực để thực hiện chính
sách. Theo số liệu theo dõi của Ban Dân tộc tỉnh Nghệ
An, trong mấy năm gần đây, chính sách được cấp kinh
phí tương đối đầy đủ nhất là Chương trình 135, số còn
lại, cao nhất cũng chỉ đạt 12%, có chính sách chỉ cấp
được 0,5% nguồn kinh phí so với mức được phê duyệt.
Nhiều đề án, chính sách được phê duyệt với những
nguồn kinh phí lớn nhưng khi thực tế giải ngân thì
thiếu kinh phí trầm trọng.
Thêm nữa, cũng do thiếu kinh phí nên nhiều khâu
quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách bị bỏ
qua. Quá trình khảo sát xây dựng đề án chưa được
quan tâm đúng mức. Khi thực hiện lại lồng ghép các
nguồn kinh phí từ các chính sách khác nhau vào một
đối tượng nên tạo ra tình trạng phức tạp, khó quản lý
và dễ bị sai sót. Cũng do thiếu kinh phí nên yếu tố
nghiên cứu khoa học trước, trong và sau khi thực hiện
chính sách thường bị bỏ qua. Hệ quả là chính sách đưa
ra không sát thực tế, không có tính khoa học và cũng
không được sửa đổi kịp thời để phù hợp với cuộc sống.
2.3. Nhân tố con người chưa đồng bộ
Một nguyên nhân nữa làm cho công tác dân tộc
chưa đạt hiệu quả cao là nhân tố con người. Con người
luôn là nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển.
Phát triển miền núi, xét cho cùng là phát triển con
người đang sinh sống ở vùng miền đó. Các chính sách
có hiệu quả hay không là phần quan trọng, nhờ vào
người thực hiện và tiếp nhận. Nhân tố con người ở đây
không chỉ là những người làm cán bộ chính sách dân
tộc, mà phải hiểu rộng hơn là nguồn nhân lực, nguồn
vốn con người phục vụ cho quá trình phát triển vùng
dân tộc thiểu số, trong đó có đội ngũ thực hiện công
tác dân tộc. Như đã đề cập đến quá trình xây dựng và
thực hiện một đề án, chính sách phát triển cần những
con người đồng bộ và có đủ năng lực để xem xét. Từ
cán bộ xây dựng đề án, cán bộ quản lý phê duyệt đề
án đến cán bộ các cấp địa phương thực hiện đề án. Nếu
đồng bộ thì đề án có tính thực tiễn cao, những người
thực hiện hiểu và nắm bắt rõ ràng để đưa vào cuộc
sống. Sau nữa, những người dân bản địa, là đối tượng
chịu tác động trực tiếp của các chính sách, đề án cũng
cần phải biết và hiểu để đòi hỏi quyền lợi cho mình
cũng như thực hiện các trách nhiệm của mình trong
quá trình phát triển.
Theo ghi nhận, trong mấy năm qua, trình độ đội
ngũ cán bộ ở miền núi Nghệ An đã được nâng cao
năng lực đáng kể, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tại chỗ.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [29]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Họ là người dân địa phương, được đào tạo để về làm
việc tại quê nhà sẽ có động lực để cống hiến hơn. Tuy
nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ mà các chính sách
phát triển miền núi đề ra thì chất lượng đội ngũ cán
bộ địa phương hiện nay vẫn còn hạn chế. Có nhiều
nơi, nhiều cán bộ địa phương chưa hiểu hoặc hiểu
chưa đầy đủ, nên chưa thể thuyết phục được người dân
cùng đoàn kết thực hiện các chính sách. Hơn nữa,
nhiều vấn đề chưa giải quyết được thỏa đáng. Chưa
kể còn có những cán bộ vì lợi ích cá nhân mà làm ảnh
hưởng đến xã hội. Tất cả những vấn đề về nhân lực
như vậy, đặt trong bối cảnh chính sách chồng chéo lên
nhau vô cùng phức tạp thì việc thực hiện công tác dân
tộc thiếu hiệu quả là điều dễ hiểu. Và về lâu dài, những
sai sót nghiêm trọng sẽ xảy ra nếu như không xử lý
kịp thời.
2.4. Đưa nghiên cứu khoa học vào xây dựng và
thực hiện các chính sách dân tộc
Theo kinh nghiệm trong công tác dân tộc của các
quốc gia và sự chia sẻ của nhiều nhà nghiên cứu thì
trong các chính sách phát triển, công tác nghiên cứu
khoa học có vai trò quan trọng. Cụ thể, nghiên cứu
khoa học sẽ giải quyết được các vấn đề:
+ Thứ nhất, tiến hành khảo sát, tìm hiểu và mô tả
các thực trạng phát triển nhằm phát hiện các vấn đề
bất cập, gây hạn chế cho quá trình phát triển hay tạo
nên những nguy cơ gây xung đột xã hội vùng dân tộc
thiểu số.
+ Thứ hai, đi sâu tìm hiểu, phân tích nguồn gốc của
các vấn đề đó và nguyên nhân làm gia tăng các vấn đề
đó, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến
các vấn đề đó.
+ Thứ ba, nghiên cứu những phương
pháp xử lý đối chứng để đề xuất những
chính sách, dự án tối ưu cho các nhà
quản trị xã hội và hoạch định phát triển
theo đuổi.
+ Và cuối cùng, nghiên cứu đánh giá
mức độ tác động đến các bên liên quan
của dự án, dự đoán các hậu quả, hệ quả
của dự án đối với cộng đồng nhằm tiếp
tục tư vấn cho nhà quản lý nên tiếp tục
dự án hay dừng dự án lại, hay thay đổi
sao cho hợp lý và hiệu quả.
Như vậy, để xây dựng và thực hiện
một chính sách dân tộc thì công tác
nghiên cứu khoa học, cụ thể là các nhà
dân tộc học, nhân học phát triển phải đi
trước một bước để tìm hiểu, đánh giá quá
trình phát triển của đối tượng mà chính
sách hướng tới. Tiếp đó, tham gia vào
toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện
chính sách để đề xuất những chỉnh sửa,
làm cho chính sách trở nên phù hợp hơn.
Ngay cả sau khi thực hiện hết chính sách,
dự án thì các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục
công việc của mình để đánh giá tác động
của chính sách và đề xuất những chính
sách, dự án tiếp theo. Nói cách khác là
nghiên cứu khoa học cần đi trước, tham
Tái định cư là một trong số các chính sách quan trọng ở vùng dân tộc thiểu số
(Một bản tái định cư đang được xây dựng ở vùng miền núi Kỳ Sơn)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [30]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
gia cả quá trình và sau đó còn tiếp tục đánh giá tác
động của chính sách.
Tuy nhiên, ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói
riêng, việc nghiên cứu khoa học trong xây dựng và
thực hiện chính sách phát triển vẫn còn hạn chế.
Trong quá trình xây dựng các chính sách, dự án phát
triển miền núi, tỉnh cũng đã tiến hành xin ý kiến đóng
góp của các nhà khoa học. Nhưng thực tế, việc làm
này chưa thật sự nghiêm túc, nhất là chưa gắn vai trò
và vị trí của nhà khoa học với quá trình xây dựng,
thực hiện chính sách. Chúng ta chủ yếu tổ chức các
hội nghị để tranh thủ ý kiến đóng góp. Và không phải
ý kiến nào của nhà khoa học cũng được nghe và vận
dụng nghiêm túc.
2.5. Định kiến tộc người và tâm thế khi xây dựng
và thực hiện chính sách
Từ đầu những năm 1960, nước ta đẩy mạnh công
tác dân tộc dựa trên tư tưởng đưa miền núi, vùng sâu,
vùng xa tiến kịp đồng bằng, đưa người dân tộc thiểu
số phát triển tiến kịp người Kinh. Điều đó tạo ra những
định kiến về tộc người mà cho đến nay vẫn còn sâu
đậm trong công tác dân tộc. Cụ thể, dù hướng đến sự
bình đẳng dân tộc, nhưng người ta vẫn xem các dân
tộc thiểu số là lạc hậu, chậm phát triển và công tác dân
tộc hướng đến giúp đỡ cho họ để hiện đại hơn, phát
triển hơn. Từ đó, tinh thần chung của công tác dân tộc
là đi giúp đỡ, làm cho người dân tộc thiểu số phát triển
hơn. Đó là tâm thế của những người văn minh đi khai
hóa cho những người lạc hậu mà nhiều nhà bản địa
học gọi là chủ nghĩa thực dân bản địa, khá phổ biến
trên thế giới hiện nay.
Để công tác dân tộc có hiệu quả hơn thì cần vượt
qua thách thức về định kiến, thay đổi tâm thế của
những người làm công tác dân tộc. Thực ra, công tác
dân tộc, xét cho cùng là một lĩnh vực của công tác xã
hội nên cần được đào tạo chuyê