Tóm tắt
Trong lịch sử Champa và Đại Việt, thành Hóa Châu (xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế) có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phòng thủ, tấn công, bảo vệ và mở rộng
lãnh thổ của các triều đại Champa và sau này là Đại Việt, gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan
trọng của vùng đất Thừa Thiên Huế hiện nay. Đáng chú ý, cho đến nay, tại di tích thành Hóa Châu
đã có 1 lần thám sát (năm 2009), 3 lần khai quật (năm 1997, 2010 và 2011), nhờ đó, nhiều vấn đề
liên quan đến tòa thành này như vị trí, cấu trúc, niên đại, chủ nhân, đã từng bước được làm sáng
tỏ. Kết quả nghiên cứu mới nhất cho thấy, thành Hóa Châu được xây dựng đầu tiên dưới thời kỳ
Champa, khoảng thế kỷ IX, sau đó được nhà Trần kế thừa và tu bổ kiên cố hơn vào đầu thế kỷ XIV,
tạo thành một trọng trấn ở vùng biên viễn phương Nam. Trong thời kỳ Champa, thành Hóa Châu là
một trị sở của châu Lý theo sử liệu Việt hay Ulik trong bia ký Champa, đóng nhiều vai trò khác nhau
như quân sự, hành chính, kinh tế, văn hóa, trong đó, vai trò quân sự nổi trội hơn cả.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành Hóa Châu (Thừa Thiên Huế) thời kỳ Champa qua kết quả nghiên cứu mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Số 24 - Tháng 6 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
THÀNH HÓA CHÂU (THỪA THIÊN HUẾ) THỜI KỲ
CHAMPA QUA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỚI
NGUYỄN VĂN QUẢNG
Tóm tắt
Trong lịch sử Champa và Đại Việt, thành Hóa Châu (xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế) có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phòng thủ, tấn công, bảo vệ và mở rộng
lãnh thổ của các triều đại Champa và sau này là Đại Việt, gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan
trọng của vùng đất Thừa Thiên Huế hiện nay. Đáng chú ý, cho đến nay, tại di tích thành Hóa Châu
đã có 1 lần thám sát (năm 2009), 3 lần khai quật (năm 1997, 2010 và 2011), nhờ đó, nhiều vấn đề
liên quan đến tòa thành này như vị trí, cấu trúc, niên đại, chủ nhân, đã từng bước được làm sáng
tỏ. Kết quả nghiên cứu mới nhất cho thấy, thành Hóa Châu được xây dựng đầu tiên dưới thời kỳ
Champa, khoảng thế kỷ IX, sau đó được nhà Trần kế thừa và tu bổ kiên cố hơn vào đầu thế kỷ XIV,
tạo thành một trọng trấn ở vùng biên viễn phương Nam. Trong thời kỳ Champa, thành Hóa Châu là
một trị sở của châu Lý theo sử liệu Việt hay Ulik trong bia ký Champa, đóng nhiều vai trò khác nhau
như quân sự, hành chính, kinh tế, văn hóa, trong đó, vai trò quân sự nổi trội hơn cả.
Từ khóa: Champa, Hóa Châu, Thừa Thiên Huế
Abstract
In the Age of Champa and Dai Viet, Hoa Chau fortress (Quang Thanh commune, Quang Dien
district, Thua Thien Hue province) played an highly important role in the strategies for attacking,
defending, protecting and expanding the territory of different reigns of Champa and later, Dai Viet
- connecting with plenty of significant historical events for the current land of Thua Thien Hue. More
noticeably, until now, at the relics of Hoa Chau ancient fortress, there have been 1 observation (in
2009), 3 excavations (in 1997, 2010 and 2011) - thanks to them, many issues related to this fortress
such as position, structure, age, owner... have been made clear step by step. The latest research
shows that Hoa Chau fortress has been built firstly in the age of Champa from IXth century, then has
been inherited by Tran dynaty and has been repaired in the beginning XIVth century and reinforced to
be one important fortress in the further border of the South. In the age of Champa, Hoa Chau fortress
was one ruling facility of Ly province - according to the historical material of Viet or Ulik in Champa’s
Inscription - and played many different roles in military, administration, economy, culture - in which
the role in military was the most outstanding.
Keywords: Champa, Hoa Chau, Thua Thien Hue
1. Mở đầu
Kết quả nghiên cứu khảo cổ học trong những năm gần đây cho thấy, thành Hóa Châu được xây dựng lần
đầu tiên vào khoảng thế kỷ IX, dưới thời kỳ
Champa, được sử dụng liên tục đến đầu thế
kỷ XIV. Năm 1307, nhà Trần tiếp nhận vùng đất
này đã tái sử dụng tòa thành cũ của Champa,
có sửa chữa, tu bổ kiên cố hơn, biến Hóa Châu
trở thành trọng trấn ở phương Nam. Các thời
kỳ kế tiếp như Hồ, Hậu Trần, Hậu Lê, Mạc cũng
đều sử dụng tòa thành này như một cơ sở
quan trọng ở vùng biên viễn phương Nam,
nơi tiếp giáp với lãnh thổ Champa.
Trong các công trình nghiên cứu trước
đây, chúng tôi đã đề cập đến một số vấn đề
của thành Hóa Châu như quy mô, cấu trúc,
kỹ thuật xây dựng, niên đại và chủ nhân...
(14, tr.713-717). Trong bài viết này, bằng các
kết quả khai quật khảo cổ học tại thành Hóa
Số 24 - Tháng 6 - 20186
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Châu, kết hợp với nghiên cứu thực địa các di
tích, di vật Champa ở Thừa Thiên Huế, nhất là
xung quanh khu vực thành Hóa Châu, chúng
tôi muốn đề cập một số vấn đề liên quan đến
thành Hóa Châu trong thời kỳ Champa (trước
thế kỷ XIV), nhất là vị trí, vai trò của nó trong
bối cảnh khu vực và trong mối liên hệ với các di
tích Champa ở Thừa Thiên Huế hiện nay, nhằm
bổ sung thêm nhận thức về tòa thành này và
cũng bởi lẽ, trong giới nghiên cứu hiện nay,
vẫn còn tồn tại quan điểm cho rằng thành Hóa
Châu xây dựng đầu tiên vào thời Trần (thế kỷ
XIV) và hơn thế nữa, cho đến nay, ít có công
trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề này.
2. Vị trí, quy mô, cấu trúc thành Hóa Châu
Dấu tích thành Hoá Châu nằm trọn trong địa
bàn của 3 thôn Thành Trung, Kim Đôi và Thủy
Điền thuộc xã Quảng Thành, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, trong đó,
phần lớn diện tích thành nằm trong địa phận
thôn Thành Trung.
Vị trí của thành thuộc khu vực hạ lưu sông
Bồ, nằm gần ngã ba Sình, nơi hợp lưu giữa
sông Bồ và sông Hương, gần phá Tam Giang
(cách 2,5km), gần biển (cách khoảng 6km).
Xung quanh thành Hóa Châu hiện nay là đồng
bằng thấp trũng, cao hơn mực nước biển hiện
tại từ 1,0m - 1,5m nên thường xuyên ngập
nước vào mùa mưa, lúc này, thành Hóa Châu
“như một đụn mây dài” (1, tr.89) giữa một vùng
mênh mông nước.
Xét một cách tổng thể, vị trí của thành Hóa
Châu có nhiều điểm tương đồng với các thành
lũy Champa khác ở miền Trung Việt Nam, đó
là nằm gần sông, lấy sông làm trục. Tuy nhiên,
thành Hóa Châu chốt chặn ở khu vực ngã ba
sông (ngã ba Sình/ngã ba châu Hóa), lại nằm
gần phá Tam Giang, khoảng cách từ thành đến
biển không xa, chính vì thế, nó có vị trí trấn giữ
cả đường sông, đầm phá và đường biển. Điều
này cho thấy thành Hóa Châu tọa lạc ở một vị
trí đắc địa, “là nơi thiên tọa đặt bày” (1, tr.89).
Về quy mô, cấu trúc lũy thành, kết quả
nghiên cứu thực địa cho thấy, thành Hóa
Châu có 2 vòng lũy rõ ràng: thành ngoại
và thành nội (còn gọi là thành Cụt). Thành
ngoại có hình chữ nhật, bị méo và có một số
chỗ không nối liền nhau (có thể là dấu vết cửa
nước). Lũy thành phía bắc (chạy theo hướng
đông bắc - tây nam), có chiều dài gần 1700m,
chỗ hẹp nhất là 27m, chỗ rộng nhất 69m, có 2
chỗ không nối nhau và nhiều bãi nổi, gò nổi.
Ở phần gối lũy phía tây bắc, ngoài vòng thành
ngoại, có 2 lũy thành ngắn ở bên trong và bên
ngoài, giữa hai lũy này là hào nước, chảy vào
khu ruộng trũng ở phía tây bắc của thành. Lũy
thành ngắn ở bên ngoài có chiều dài 685m,
hình chữ “L”.
Lũy thành phía nam có chiều dài hơn 2000m,
chỗ hẹp nhất ở hướng đông là 3,6m, chỗ rộng
nhất lên tới 52m (chiều rộng trung bình 12m -
15m), độ cao trung bình từ 1,8m - 2,0m và có 1
chỗ không nối liền nhau (khoảng 110m) giữa
đoạn phía tây và đoạn phía đông. Còn ở phía
nam của chỗ không nối nhau, có một đoạn lũy
ngắn, chiều dài khoảng 340m. Nhìn chung, lũy
phía nam có chiều rộng nhỏ hơn lũy phía bắc.
Ở góc phía nam của lũy thành phía nam có 2
Bản vẽ 1. Sơ đồ thành Hóa Châu
(Nguồn: Nishimura Masanari và Nguyễn Văn Quảng)
7Số 24 - Tháng 6 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lớp thành ngắn ở ngoài lũy (dài khoảng 350m
và 410m). Lũy thành phía đông (giáp thôn Kim
Đôi) và lũy thành phía tây (giáp chợ Tây Ba, xã
Quảng Thành) đều có chỗ không nối nhau ở
đoạn giữa (xung quanh khu vực sông Kim Đôi
chạy qua). Nếu kể cả chỗ không nối nhau, lũy
thành phía tây có chiều dài hơn 500m, rộng
nhất 44m, hẹp nhất 15m và lũy thành phía
đông có chiều dài khoảng 600m, hẹp nhất
28m, rộng nhất 60m. Dựa vào kết quả này cho
thấy, tổng chiều dài, rộng của thành ngoại (kể
cả chỗ không nối nhau) là hơn 4700m.
Thành nội (còn gọi là thành Cụt) có hình chữ
nhật và nằm ở khu giữa thôn Thành Trung, cách
sông Thành Trung 150m về phía bắc. Cả 2 lũy
thành phía bắc và phía nam của thành nội đều
chạy song song với lũy thành ngoại phía bắc.
Theo hiện trạng, lũy phía nam có chiều rộng to
hơn lũy phía bắc. Cả hai lũy có chiều dài như
nhau, khoảng 234m, chiều rộng lũy dao động
từ 35m - 64m. Hai lũy phía tây và phía đông có
chiều dài lần lượt là 147m và 137m, chiều rộng
trung bình 29m. Như vậy, tổng chiều dài, rộng
của thành nội khoảng 750m.
Qua khảo sát, chúng tôi cũng xác định ở
phía ngoài lũy thành ngoại phía đông có khu
vực như lũy thành bao quanh (chúng tôi tạm
gọi là thành bắc), thuộc địa phận làng Kim Đôi.
Thành bắc chạy theo hướng đông bắc - tây
nam, như nối nhau với lũy thành ngoại phía
bắc, dĩ nhiên có chỗ không nối nhau. Còn ở
phía ngoài lũy thành ngoại phía đông cũng
có một lũy chạy song song với nó và chiều dài,
rộng tương đồng. Nếu kể cả 4 bên của khu
thành này, chiều dài có khoảng 1770m. Giữa 2
lũy thành này, hiện nay có khu ngòi nước, khả
năng trong thời gian sử dụng thành chúng có
vai trò là hào nước. Như vậy, kết hợp sông Kim
Đôi và 2 lũy còn lại (phía bắc và phía tây), khu
vực cư trú thôn Kim Đôi hiện nay cũng được
xem là một khu thành quách riêng (9, tr.9-28).
Bao quanh các lũy thành là hệ thống hào
nước sâu, rộng, ôm sát lấy chân thành. Hệ
thống sông/hào nước này thông với sông Bồ,
sông Hương và phá Tam Giang, vừa tạo nên sự
kiên cố cho thành lũy, vừa đóng vai trò to lớn
trong giao thông đường thủy, kết nối thành
Hóa Châu với hệ thống sông Bồ, sông Hương,
phá Tam Giang và biển cả. Đồng thời đây cũng
là những đường thoát nước, chống ngập úng
cho khu vực thành trong những mùa mưa lũ.
Ở những nơi xung yếu, có đóng các cọc gỗ
thành hàng, sát nhau dọc mép lũy để giữ chân
lũy vững chắc1. Trước và trong Thành cũng có
các con sông chạy qua như sông Thành Trung/
sông Kim Đôi, sông Tiền Thành. Hệ thống sông
và các hào nước đi vào bên trong thành qua 6
cửa nước (15, tr.660).
Với kích thước tổng chiều dài, rộng vòng
thành ngoại hơn 4700m, thành Hóa Châu được
xem có quy mô lớn hơn rất nhiều so với các
thành cổ Champa khác như Trà Kiệu, thành
Cha, Thuận Châu, Cao Lao Hạ, thành Lồi, lớn
thứ hai trong số các thành lũy Champa ở miền
Trung và chỉ nhỏ hơn một chút so với qui mô
của thành Đồ Bàn ở Bình Định (3).
Các đặc điểm trên cho thấy, thành cổ Hóa
Châu được xây dựng khá quy chỉnh, kết hợp hài
hòa giữa yếu tố tự nhiên và nhân tạo, tạo nên
tòa thành kiên cố trấn giữ vùng đất trọng yếu
ven biển, ven sông, ven đầm phá. Thành mang
đậm tính chất của một thủy thành, có ưu thế
về quân sự, lúc phòng vệ cũng như tấn công
hay một quân thành trấn nhậm vùng gần sông,
gần biển.
3. Thành Hóa Châu dưới thời kỳ Champa
Những thông tin về thành Hóa Châu trong
thời kỳ Champa (trước năm 1306) hầu như
không được đề cập trong các sách sử, vì vậy,
khi nghiên cứu về thành Hóa Châu trong thời
kỳ này, chúng ta chỉ có thể dựa vào tư liệu khảo
cổ học.
Cuộc khai quật năm 1997 của Viện Khảo
cổ học Việt Nam tại thành Hóa Châu lần thứ
nhất, với diện tích 222m2 thuộc phạm vi bên
trong thành nội đã phát hiện lớp di chỉ văn hóa
Champa nằm tiếp giáp trên lớp di tích kiến trúc
Đại Việt ở độ sâu trung bình từ 1,1m - 1,7m.
Tầng văn hóa có màu đen, chứa đầy các mảnh
gốm, gạch, ngói Champa điển hình, đặc biệt có
lẫn một số mảnh gốm sứ Trung Quốc. Kết quả
giám định cho thấy chúng thuộc các loại hình
gốm thô, mịn, thuộc các loại hình chân cà ràng
Số 24 - Tháng 6 - 20188
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
(thế kỷ VI - VII), vò (thế kỷ VII - VIII) và các mảnh
bát, vò gốm bán sứ Trung Quốc (thế kỷ IX - XIII).
Tuy nhiên, các nhà khảo cổ chủ trì khai quật đã
cho đây là lớp di chỉ cư trú khá thuần của người
Chăm (18).
Trong các cuộc khai quật thành Hóa Châu
từ năm 2009 - 2011 do Khoa Lịch sử, trường
Đại học Khoa học Huế phối hợp với Đại học
Kansai (Nhật Bản) thực hiện cũng phát hiện
được tầng văn hóa Champa, chứa đựng nhiều
gạch Champa, các mảnh gốm thô, gốm sành
Champa thuộc các loại hình nồi, bình, vò có
niên đại từ thế kỷ IX trở về sau và nhiều gốm
sứ Trung Quốc, chủ yếu là các loại hình bát, đĩa,
chậu, vò... có niên đại từ thế kỷ IX - XIII tại các hố
THC09.XM1, THC09.XM9, THC11.TN3, THC11.
XM13, THC11.XM23. Các hiện vật này được xem
là đồ dùng sinh hoạt cho quan lại, binh lính
trong thành. Đáng chú ý, tại hố THC10.KTr, tầng
văn hóa Champa được xác định nằm trên lớp
chứa hiện vật văn hóa tiền Sa Huỳnh. Điều này
cho thấy, thành Hóa Châu được người Champa
xây dựng trên cơ tầng văn hóa sớm hơn, tương
tự như một số thành lũy Champa khác ở miền
Trung như Cổ Lũy (Quảng Trị), Trà Kiệu (Quảng
Nam), thành Cha (Bình Định) (10).
Qua nghiên cứu mặt cắt lũy thành nội phía
nam, chúng tôi nhận thấy, địa tầng lũy không
cho thấy những lớp nhỏ do trình tường như
các lũy thành ở Bắc bộ Việt Nam như thành Cổ
Loa và Lũng Khê. Ở lớp trên của lớp đất trong
lũy được đắp chủ yếu bằng đất cát, màu vàng,
thuần. Còn ở phần dưới của lũy được kê các
khối đá tự nhiên (30cm - 50cm) trên nền đất
cát màu đen sẫm. Cấu trúc và cách xây lũy này
hoàn toàn khác so với các lũy thành ở Bắc bộ
Việt Nam và một số thành lũy Champa ở miền
Trung Việt Nam như thành Lồi (Thừa Thiên
Huế), thành Trà Kiệu (Quảng Nam), thành Đồ
Bàn (Bình Định), thành Hồ (Phú Yên). Có thể
thấy lớp đất màu đen sẫm phía dưới là lớp
thành thời kỳ Champa; còn lớp đất cát, màu
vàng, thuần ở trên là lớp đất đắp thêm ở giai
đoạn sau, nhất là thời Trần, để tạo nền móng
vững chắc, trước khi đắp thêm người xưa đã
gia cố thêm lớp đá giữa hai lớp đất.
Điều đáng chú ý, ở bên trong phạm vi thành
Hóa Châu, phát hiện rất nhiều tác phẩm điêu
khắc Champa bằng sa thạch như: bệ đá ốp
chân tháp trên lũy thành nội, niên đại thế kỷ
IX - X; chân trụ cửa Thành Trung niên đại thế
kỷ IX2; bệ thờ tại nhà thờ họ Nguyễn Quang
niên đại thế kỷ IX - X; mảnh đá trang trí góc
đền - tháp niên đại thế kỷ XII - XIII; tượng thần
Vishnu, tượng Phật Thích ca và Phật Sơ sinh
đang thờ tại chùa Thành Trung. Như vậy, trừ 3
tác phẩm hiện đang thờ tại chùa Thành Trung
chưa có sự thống nhất về niên đại (do bị Việt
hóa), các tác phẩm còn lại được xác định niên
đại thế kỷ IX - XIII, trong đó đa số các hiện vật có
niên đại thế kỷ IX - X.
Các hiện vật này cùng với sự phát hiện
nhiều gạch Champa trong các cuộc khai quật,
cho thấy, bên trong thành Hóa Châu đã từng
tồn tại những công trình kiến trúc đền - tháp
Champa nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng
tôn giáo cho một bộ phận cư dân, trường hợp
này chúng ta cũng thấy ở một số thành lũy
Champa như Trà Kiệu (Quảng Nam), thành
Chas/Tra, Đồ Bàn (Bình Định).
Mặt khác, bên ngoài, xung quanh thành
Hóa Châu còn có sự hiện diện của nhiều di
tích, di vật Champa được phát hiện như tượng
nam thần, chóp tháp và phù điêu Vishnu Triều
Sơn Nam, thế kỷ X - XI, cách thành 1,5km theo
đường thẳng về phía nam; phù điêu Ravana
(thế kỷ IX), tượng Quan thế âm Bồ tát ở dạng
nam thân (Lokesvara) Thanh Phước (thế kỷ IX -
X) cách Thành 600m về phía đông nam; bia Phú
Lương, thế kỷ X, cách Thành 01km về phía tây
nam; bia Lai Trung, thế kỷ X, cách Thành 2km về
phía tây bắc. Các hiện vật này chắc chắn có mối
liên hệ mật thiết với trung tâm quân sự - hành
chính - kinh tế là thành Hóa Châu, là những cơ
sở tín ngưỡng tôn giáo ở bên ngoài Thành, nơi
có nhiều cư dân sinh sống. Điều này cho thấy,
trong thời kỳ Champa, thành Hóa Châu là trung
tâm hội tụ văn hóa của khu vực, là nơi tập trung
dân cư đông đúc.
Với các bằng chứng về di tích, di vật liên
quan, chúng tôi cho rằng thành Hóa Châu
được người Champa xây dựng đầu tiên vào
khoảng thế kỷ IX trên nền của một khu cư trú
9Số 24 - Tháng 6 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thuộc thời kỳ văn hóa tiền Sa Huỳnh3, sau đó
được người Việt kế thừa vào thế kỷ XIV đúng
như sử sách đã ghi chép về việc tu bổ thành
vào giai đoạn nhà Trần năm 1362 (6, tr.646).
Sự xuất hiện của thành Hóa Châu ở khu vực
gần đầm phá Tam Giang có liên quan đến sự
thay đổi bối cảnh khu vực, nhất là sự suy yếu
của nhà Đường, sự nổi lên của các quốc gia ở
Đông Nam Á, trong đó có khu vực phía bắc
Champa (Giao Chỉ, Cửu Chân, sau thế kỷ X là
Đại Cồ Việt/Đại Việt); sự tăng cường
giao lưu buôn bán trên biển, ven sông
với vai trò nổi trội của các thương nhân
Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập nên các chính
thể thường chuyển trung tâm kiểm
soát việc buôn bán về gần biển và đặc
biệt là sự tăng lên về mực nước của hệ
đầm phá Tam Giang trong thời kỳ hình
thành của Hóa Châu, bởi lẽ con đường
di chuyển đường thủy chủ đạo vào
thành Hóa Châu là từ phá Tam Giang
vào. Theo các nhà nghiên cứu địa chất,
từ khoảng 2.500 năm trở lại đây, do ảnh
hưởng tan băng, mực nước đại dương dâng
cao với tốc độ tăng dần 0,8-2mm/năm và vượt
trội tốc độ nâng tân kiến tạo khá ổn định của
khu vực, gây ra hiện tượng biển tiến trở lại vào
đầm phá Tam Giang, đồng bằng, mở đầu thời
kỳ suy tàn của dãy cồn đụn cát chắn bờ và đầm
phá vừa được hoàn thiện. Quá trình dâng lên
này của nước biển kéo dài mãi cho đến khoảng
giữa thiên niên kỷ thứ II (17, tr.58-59), điều này
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và tồn tại
của thành Hóa Châu - một tòa thành trấn nhậm
vùng gần sông, ven biển, lấy giao thông đường
thủy làm chủ đạo.
Thời điểm từ thế kỷ IX là giai đoạn đầu tiên
và cũng là giai đoạn chính của việc xây dựng
thành lũy Hóa Châu, sau đó người xưa đã sử
dụng thành nội và vùng ngoài phía bắc của
thành nội đến thế kỷ XII - XIII. Thành nội trong
giai đoạn này có khả năng nằm trong phạm
vi đất đầm lầy. Kết quả khai quật cho thấy địa
hình tự nhiên như ao hồ và sông suối có thể
chiếm diện tích khá nhiều cả bên trong và
xung quanh của thành ngoại.
Trong thời kỳ Champa, thành Hóa Châu có
thể là một trong những tòa thành của châu/
tiểu vương quốc Ulik (Ô Lý?) trong bia ký Mỹ
Sơn đầu thế kỷ XIII (12, tr.26-32), sau này là
châu Lý/Rí theo sử liệu Đại Việt. Đây là vùng
phía bắc của vương quốc Champa, nơi tiếp
giáp với vùng đất đô hộ của Trung Hoa (trước
thế kỷ X) và sau này là lãnh thổ Đại Việt (sau
thế kỷ X), vì vậy, khu vực này thường xảy ra các
cuộc giao tranh giữa các bên (6, tr.222-567).
Chính vì vậy, thành Hóa Châu thời kỳ này đóng
Bệ thờ Thành Trung, thế kỷ IX- X
(Nguồn: Tác giả)
Bia Lai Trung, thế kỷ X
(Nguồn: Tác giả)
Số 24 - Tháng 6 - 201810
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vai trò là tấm lá chắn (cùng với các thành lũy
khác ở khu vực bắc Hải Vân) cho kinh đô ở phía
nam, đồng thời cũng là bàn đạp để Champa
tấn công ra khu vực phía bắc đèo Ngang. Sau
năm 1069, khi vùng đất từ nam đèo Ngang đến
bắc sông Thạch Hãn (tương ứng với các châu
Địa Lý, Bố Chính, Ma Linh) nhập vào Đại Việt,
vùng Ô, Lý/Rí trở thành biên viễn phía bắc của
Champa, nơi tiếp giáp trực tiếp với Đại Việt thì
vai trò quân sự của thành Hóa Châu càng trở
nên quan trọng.
Điều đáng chú ý là, số lượng hiện vật thuộc
thời kỳ Champa phát hiện được trong thành
Hóa Châu không lớn. Dựa vào điều này và
căn cứ vào vị trí, môi trường cổ của thành này,
chúng ta không nên áp dụng mô hình thành
quách của Bắc Bộ về tính chất đối với thành
Hóa Châu. Khả năng số lượng người ở trong
thành trong thời kỳ Champa không nhiều và
khu vực sử dụng cũng không lớn. Điều này liên
quan đến chức năng của thành. Vì nếu không
có vai trò như kinh đô, có dân số lớn trong khu
kinh thành, chúng ta bắt buộc phải suy nghĩ
rằng, thành Hóa Châu thời kỳ Champa có chức
năng quân sự nhiều hơn.
Cuộc chinh phạt Champa năm 1044 của
vua Lý Thái Tông đã cho thấy thành Hóa Châu
là một chốt chặn quân sự quan trọng phải vượt
qua ở phía bắc nếu muốn tấn công vào kinh
đô Champa ở phía nam (lúc này là thành Đồ
Bàn, Bình Định): “Ngày Giáp Thìn, quân đi từ
Kinh sư, ngày Ất Tị đến cửa Đại Ác gặp sóng gió
yên lặng, đại quân qua biển dễ dàng nên đổi tên
Đại Ác thành Đại An4. Đến núi Ma Cô5 có đám
mây tía bọc lấy mặt trời. Qua vũng Hà Não6 có
đám mây che thuyền ngự, theo thuyền mà đi
mà dừng. Ngày hôm ấy đến cửa biển Trụ Nha7.
Ngày hôm sau đi, nhờ thuận gió trong một ngày
qua hai bãi Đại Tiểu Trường Sa. Đến cửa biển Tư
Dung có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe
tin Chiêm Thành đưa quân và voi bày trận ở bờ
nam sông Ngũ Bồ, muốn chống lại quan quân.
Vua xuống chiếu cho quân bỏ thuyền lên bộ, đem
quân sĩ đến bờ sông bên bắc, thấy quân Chiêm
đã dàn ở bên sông. Vua mới cắt đặt quân sĩ, dựng
cờ nổi trống, sang tắt ngang sông để đánh. Hai
bên chưa giao chiến, quân Chiêm đã tan vỡ,
quan quân đuổi chém được 3 vạn thủ cấp. Quách
Gia Di chém đ