Tóm tắt. Ngày nay, trong các nghiên cứu khoa học về xã hội và nhân văn cũng như nhiều
ngành khoa học khác, khu vực học được coi là một khoa học có tính gắn kết cao và là cơ
sở nền tảng để các khoa học khác, đặc biệt góp phần định hướng quan trọng cho các môn
khoa học xã hội và nhân văn dựa vào để nghiên cứu, khai thác và đưa ra kết quả định hướng
vấn đề, đối tượng bởi tính liên ngành cao trong khu vực học. Du lịch được coi là một ngành
kinh tế tổng hợp, trước yêu cầu của phát triển và hội nhập đòi hỏi các nhà làm công tác
chuyên môn luôn phải tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra những kết quả nhằm ứng dụng cho
phát triển du lịch đảm bảo hiệu quả và bền vững. Nghiên cứu liên ngành là phương pháp
ưu việt đối với ngành được coi là kinh tế tổng hợp như du lịch hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận liên ngành trong khu vực học với nghiên cứu phát triển du lịch (Ứng dụng trường hợp tỉnh Gia Lai), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0023
Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 185-193
This paper is available online at
TIẾP CẬN LIÊN NGÀNH TRONG KHU VỰC HỌC VỚI NGHIÊN CỨU
PHÁT TRIỂN DU LỊCH (ỨNG DỤNG TRƯỜNG HỢP TỈNH GIA LAI)
Trần Đăng Hiếu
Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Ngày nay, trong các nghiên cứu khoa học về xã hội và nhân văn cũng như nhiều
ngành khoa học khác, khu vực học được coi là một khoa học có tính gắn kết cao và là cơ
sở nền tảng để các khoa học khác, đặc biệt góp phần định hướng quan trọng cho các môn
khoa học xã hội và nhân văn dựa vào để nghiên cứu, khai thác và đưa ra kết quả định hướng
vấn đề, đối tượng bởi tính liên ngành cao trong khu vực học. Du lịch được coi là một ngành
kinh tế tổng hợp, trước yêu cầu của phát triển và hội nhập đòi hỏi các nhà làm công tác
chuyên môn luôn phải tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra những kết quả nhằm ứng dụng cho
phát triển du lịch đảm bảo hiệu quả và bền vững. Nghiên cứu liên ngành là phương pháp
ưu việt đối với ngành được coi là kinh tế tổng hợp như du lịch hiện nay.
Từ khóa: Khu vực học, phát triển du lịch, tiếp cận liên ngành.
1. Mở đầu
Ngày nay, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ đặc biệt là các khoa học công nghệ như
thông tin, kiểm định, công nghệ số. . . đã giúp ích rất nhiều cho các nghiên cứu của các nhà khoa
học trên nhiều lĩnh vực. Tiếp cận liên ngành của Khu vực học trong nghiên cứu khoa học đang
nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học như Trần Lê Bảo, Phạm Đức Dương, Nguyễn Tri
Nguyên, Lưu Minh Văn, Nguyễn Văn Hậu... [1-5]. Tuy nhiên, để xác định làm rõ được đối tượng
nghiên cứu bên cạnh sự giúp ích của các thành tựu khoa học công nghệ thì hướng tiếp cận liên
ngành là đặc biệt quan trọng và hữu ích để làm rõ được rất nhiều những thắc mắc, những bế tắc
trong việc nghiên cứu, xác định đối tượng, vấn đề để đưa ra được các kết quả nghiên cứu có tính
chính xác và thuyết phục cao. Công trình này của chúng tôi mong muốn ứng dụng nghiên cứu liên
ngành như là phương pháp ưu việt nhằm thúc đẩy sự phát triển của du lịch - ngành được coi là kinh
tế tổng hợp hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tiếp cận liên ngành của Khu vực học trong nghiên cứu khoa học
Khu vực học là một trong nhiều bộ môn khoa học liên ngành. Tri thức của nhân loại về thế
giới khách quan là vô cùng rộng lớn và tồn tại không phải là bất biến mà luôn vận động, thay đổi
Ngày nhận bài: 15/10/2016. Ngày nhận đăng: 20/3/2017
Liên hệ: Trần Đăng Hiếu, e-mail: hieutran.dhsp@gmail.com
185
Trần Đăng Hiếu
đa dạng và phức tạp theo thời gian và không gian cho nên cần phải có những ngành nghiên cứu áp
dụng phương pháp liên ngành như Khu vực học tức là nghiên cứu các vấn đề đối tượng trong tổng
thể của thế giới khách quan ở nhiều phương diện và góc độ mới có khả năng lí giải những khác biệt
và cho ra kết quả một cách toàn diện, khách quan và thuyết phục. Việc vận dụng cách tiếp cận liên
ngành sẽ vô hình chung làm cho các khoa học chuyên ngành bộc lộ nhiều điểm yếu trong nghiên
cứu vấn đề đối tượng mà đặc trưng nhất là tính cục bộ hay tính áp đặt trong các nhận định hay kết
quả nghiên cứu.Tuy nhiên, vì là cách tiếp cận mới nên nghiên cứu liên ngành cũng có một số hạn
chế nhất định như bị coi là không có tính chuyên sâu hay không có tính chuyên môn hóa cao, chưa
mang tính học thuật phổ biến. . .
Nghiên cứu khu vực học là tiếp cận phương pháp liên ngành trong nghiên cứu. Vậy liên
ngành là gì?
Theo Trần Lê Bảo, liên ngành là một thuật ngữ được tạo bởi hai từ gốc tiếng Anh là inter
và disciplinarity. Trong đó inter có nghĩa là ở giữa hay liên kết còn disciplinarity là môn học hay
là ngành học. Cũng theo tác giả, interdisciplinarity có nghĩa là sự liên kết các môn học, các ngành
học [1].
Tính liên ngành trong nghiên cứu khoa học là đặc điểm nổi trội của sự phát triển khoa học
hiện đại. Nó đã diễn ra và dần được định hình trong khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn và khoa
học xã hội của thế kỉ XX và theo ý kiến của các nhà khoa học luận đó vẫn sẽ là xu hướng chính
trong thế kỉ này. Nhưng điều đó không có nghĩa đã hết vấn đề, hay nói nôm là còn nhiều việc cần
giải quyết tiếp.
Trả lời câu hỏi tính liên ngành trong sự phát triển của khoa học hiện đại có nhiều cách giải
nghĩa, nhưng về đại thể nó được hiểu là sự tích hợp, thâm nhập giữa các khoa học trong nghiên
cứu. Vì vậy về bản chất đó là sự thay đổi “cách nhìn” đối tượng từ chỗ chỉ xuất phát từ một hệ quy
chiếu sang hệ phức hợp. Sự thay đổi đó là không đơn giản, điều này được thể hiện không chỉ trong
lịch sử phát triển của khoa học, mà cả trong chính thực hành nghiên cứu. Những khó khăn trong
nghiên cứu liên ngành có thể đến từ nhiều phía, nhưng điều căn bản là nó đặt ra những đòi hỏi thay
đổi từ phương diện tri thức luận, bản thể luận, phương pháp luận đến thể chế nghiên cứu và đào
tạo [4].
Liên ngành là một khái niệm nói lên một thực tế diễn ra trong lí luận và nghiên cứu khoa
học nói chung cũng như trong văn hóa học nói riêng. Nó được hiểu như là một cách tiếp cận hiện
đại trong nghiên cứu khoa học và là một sự phản ứng trước hiện tượng chuyên môn hóa ngày càng
cao trong những chuyên ngành khoa học đã mang tính ổn định. Vì vậy, tính đa tầng của các lĩnh
vực khoa học đang đặt ra hiện nay ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế
giới.
J. Kokelmans – nhà triết học người Đức đã đưa ra một cách phân biệt các thuật ngữ trong
nghiên cứu khoa học hiện đại (phân loại mang tính hình thức) tác biệt giữa: Ngành (hay bộ môn),
Chuyên ngành, Đa ngành và Liên ngành. Cách giải thích sự khác biệt giữa các thuật ngữ trên đây
của J. Kokelmans hoàn toàn mang tính hình thức. Nó không tạo ra được một thuật ngữ có tính
chính xác khoa học.
J. Mittelstrass – nhà khoa học người Đức đề nghị, nên xác định sự chuyên ngành hóa đích
thực là sự xuyên ngành. Các chuyên ngành phải định rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu cho đến
những vấn đề cần được giải quyết, mà không còn phụ thuộc vào cách lí giải của một chuyên ngành
đơn lẻ. Ông định nghĩa: “Sự xuyên ngành là làm cho các ngành riêng lẻ không còn như nó vốn
có”.
Với định nghĩa này thì các khái niệm đa ngành, liên ngành và xuyên ngành là những cấp độ
186
Tiếp cận liên ngành trong khu vực học với nghiên cứu phát triển du lịch...
và là những hình thức tham gia của nhiều chuyên ngành khác nhau vào phương pháp nghiên cứu
nào đó. Nhưng chỉ có sự xuyên ngành mới đạt đến chất lượng cao của phương pháp mà ta gọi là
phương pháp liên ngành. Đó chính là sự hợp đề (Synthese). Sự liên ngành không chỉ là sự bổ sung
của những phương pháp luận, mà còn là một ngành hay một chương trình độc lập đối với việc cải
tiến khoa học trong thực tiễn nghiên cứu mới.
Có thể nói, liên ngành không phải là sự cộng lại của các ngành khoa học với nhau, mà là sự
tổng tích hợp các cách tiếp cận, các phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành vào trong một
ngành khoa học mới [6].
Thực ra khái niệm này đã xuất hiện và tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Trung tâm
nghiên cứu liên ngành của Đại học North Texas – Hoa Kỳ đã có công trình nghiên cứu về phương
pháp liên ngành trong nghiên cứu. Cụ thể trong Sổ tay Oxford của tri thức khoa học giới thiệu một
mức độ lớn hơn nhằm vào các lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, giáo dục, và thực hành bằng cách
tạo ra một công việc đó sẽ trở thành kinh thánh cho tất cả các nỗ lực trong tương lai tại liên ngành.
Cùng với việc xem xét các công việc học tập, nó cũng sẽ tìm cách để vẽ ra các mối quan hệ cho
việc thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, từ công việc kinh
doanh của pháp luật và chính quyền [11].
Nghiên cứu khu vực học thoạt đầu cũng có nhiều ý kiến cho rằng chỉ cần nghiên cứu thông
qua các nguồn tài liệu trên các ấn phẩm được lưu trữ hoặc các nguồn thông tin được cung cấp qua
các kênh thông tin đại chúng nhưng trên thực tế, đại đa số các ý kiến khác lại cho rằng, nghiên cứu
khu vực học là phải nghiên cứu tại thực địa bởi chỉ có thực địa mới có thể đưa ra được kết quả sát
thực và đầy đủ khách quan nhất.
Một nhà nghiên cứu khu vực học người Mỹ, David Szanton đã nêu khái niệm khu vực học
như sau: “Hiểu một cách rõ ràng nhất thì khu vực học là một nhóm gồm nhiều lĩnh vực và hoạt
động học thuật với những đặc điểm chung sau đây: (1) Nghiên cứu sâu về ngôn ngữ; (2) Nghiên
cứu điền dã sâu bằng tiếng bản địa; (3) Nghiên cứu kĩ các sự kiện lịch sử địa phương, các quan
điểm, các tài liệu, tư liệu, các tri thức về địa phương; (4) Kiểm tra, thảo luận, phê phán hay phát
triển các lí thuyết cơ bản dựa trên những quan sát cụ thể; (5) Có những thảo luận liên ngành liên
quan đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn [12].
Cách giải thích trên chứa đựng hàng loạt các ý niệm về đối tượng và phương pháp nghiên
cứu, đặc biệt là phương pháp liên ngành trong nghiên cứu khu vực học. Nó giống như một đường
hướng nghiên cứu được đông đảo các nhà nghiên cứu không chỉ ở Mỹ mà còn ở nhiều quốc gia
trên thế giới ủng hộ đồng thuận.
Phương pháp tiếp cận liên ngành là phương pháp liên kết các phương pháp riêng biệt của
nhiều ngành khác nhau, như là những phương pháp cụ thể dưới sự chỉ đạo của phương pháp luận
mới, để khám phá đối tượng. Liên ngành bao trùm nhất và phổ biến nhất trong việc nghiên cứu
văn hóa, là sự kết hợp giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giữa các ngành khoa học xã hội
và nhân văn với nhau.
Các ngành khoa học tự nhiên trong đó quan trọng nhất là Địa lí học để xây dựng ngành Địa
lí nhân văn; ngành Sinh học, xây dựng ngành Nhân học; ngành Toán học để làm công cụ tính toán
định lượng đến định tính... còn các ngành Khoa học xã hội và Nhân văn đương nhiên phải được
thâm nhập vào nhau.
2.2. Tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu phát triển du lịch
Việc ứng dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong phát triển du lịch đã và đang thu
hút được ngày càng nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà chuyên môn trong và ngoài
187
Trần Đăng Hiếu
nước. Gần đây, năm 2014 Liên hiệp khoa học phát triển du lịch bền vững (STDe) tổ chức hội thảo
khoa học với chủ đề “Tư duy hệ thống – liên ngành trong phát triển Du lịch Bền vững”.
Tại buổi hội thảo, TS Nguyễn Thu Hạnh đã giới thiệu phương pháp tư duy hệ thống, liên
ngành và ứng dụng của nó trong các dự án nghiên cứu phát triển du lịch bền vững tại STDe. Theo
TS Hạnh, phương pháp liên ngành ứng dụng trong phát triển du lịch tuy còn khá mới mẻ và còn
nhiều trăn trở nhưng phải thừa nhận đây là phương pháp rất ưu việt cho nghiên cứu du lịch bởi tính
toàn diện đa chiều cạnh của nó khi nghiên cứu hay tìm hiểu để góp phần làm rõ về một vấn đề hay
một đối tượng nào đó.
Các đại biểu đến tham dự cũng đều cho rằng “tư duy hệ thống” và “tư duy liên ngành” là
cần thiết trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay có rất nhiều biến động. Tuy nhiên, làm thế nào để
áp dụng hiệu quả vào thực tiễn công việc thì đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và thực nghiệm chuyên
sâu và lâu dài.
Tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu phát triển du lịch qua đề tài cấp Nhà nước do GS.TS
Trương Quang Hải chủ trì được làm rõ như sau:
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành và liên vùng cao. Liên ngành được
định nghĩa theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (O.E.C.D) là “một danh từ mô tả sự tương tác
giữa hai hoặc nhiều hơn ngành khoa học khác nhau. Mối quan hệ tương tác đó có thể kể từ việc
truyền thông đơn giản những ý tưởng đến sự tích hợp lẫn nhau trong việc tổ chức ra những khái
niệm, phương pháp luận, thủ tục, thuật ngữ, dữ liệu và những tổ chức nghiên cứu và giáo dục trong
một diện trường thật rộng lớn”. Liên ngành được tiếp cận theo ba mức độ: (i) Dùng khái niệm và
phương pháp ngành này áp dụng cho ngành kia; (ii) Vận dụng những quy luật của ngành này vào
ngành khác để làm hậu thuẫn cho việc minh giải quy luật hoặc định hướng tìm tòi cho một ngành
khác; (iii) Xác định điểm giao thoa giữa các ngành của bộ môn khu vực học.
Du lịch là ngành kinh tế có nhiều mối quan hệ với các ngành kinh tế khác. Một sản phẩm
du lịch được cấu thành bởi nhiều thành phần kinh tế, khi một tour du lịch hoàn chỉnh và đến với
du khách đã có sự tham gia của các trung tâm du lịch, tổ chức lữ hành, trung tâm xúc tiến du lịch,
ngành vận tải, thông tin, an ninh trật tự. Nhận thức được tính liên ngành của du lịch, đề tài sử dụng
tiếp cận liên ngành trước hết trong quá trình khảo sát thực địa. Nhóm khảo sát bao gồm nhiều nhà
nghiên cứu thuộc lĩnh vực khác nhau như Địa lí, lịch sử, môi trường. . . Nhóm nghiên cứu liên
ngành rõ ràng hỗ trợ nhau trong nghiên cứu, các vấn đề được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh khác
nhau mang lại chiều sâu trong nghiên cứu, trong nhiều trường hợp một số giải pháp đưa ra được
thảo luận ngay tại điểm khảo sát, các tranh luận thực chứng có sự phản biện trực tiếp giúp sớm tìm
ra giải pháp tối ưu nhất [10].
Nhờ tiếp cận liên ngành, nghiên cứu đã đánh giá cả tiềm năng tự nhiên và tiềm năng nhân
văn. Trong tiềm năng tự nhiên lại phân ra thành tiềm năng địa chất - địa mạo, khí hậu, thủy văn,
sinh vật. . . Sau giai đoạn phân chia, đánh giá thành phần, giai đoạn đánh giá tổng hợp đã đặt các
đối tượng du lịch trong tổng thể các nghiên cứu khác nhau, tiếp cận liên ngành như là công cụ để
tích hợp các nghiên cứu thành phần khi đánh giá, cho điểm, xếp hạng các di sản.
2.3. Ứng dụng tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu phát triển du lịch bền vững
ở tỉnh Gia Lai
Phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Gia Lai rất cần đến nhiều phương pháp nghiên cứu trong
đó phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành là một phương pháp đóng vai trò quyết định bởi
lẽ khi nghiên cứu về địa bàn tỉnh Gia Lai đặt trong phạm vi khu vực Tây Nguyên, tác giả cần vận
dụng nhiều đến các môn khoa học cũng như các phương pháp nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa
188
Tiếp cận liên ngành trong khu vực học với nghiên cứu phát triển du lịch...
học khác nhau để luận giải cho những vấn đề của đối tượng mà đề tài nghiên cứu.
Cụ thể để nghiên cứu được tiềm năng, hiện trạng của du lịch Gia Lai, tác giả phải biết vận
dụng kết hợp nhiều kiến thức của nhiều bộ môn khoa học khác nhau như văn hóa, lịch sử, địa lí,
xã hội học, dân tộc học. . . để nghiên cứu một vấn đề hay nhiều vấn đề trong cùng một đối tượng
nhằm tìm ra được bản chất khách quan, đầy đủ và toàn diện nhất của vấn đề nghiên cứu để từ đó
mới đưa ra được những giải pháp góp phần xây dựng du lịch địa bàn nghiên cứu phát triển bền
vững.
Chẳng hạn như để đánh giá được đầy đủ về nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Gia Lai thì
tác giả phải kết hợp được nhiều phương pháp nghiên cứu như điền dã, điều tra xã hội học, phân
tích đo lường đánh giá hệ sinh thái cảnh quan tự nhiên, phỏng vấn sâu người dân về văn hóa truyền
thống trong ăn, mặc, ở, đi lại của họ để tìm ra đặc trưng nhất về văn hóa của cư dân bản địa.
Với đề tài nghiên cứu của mình, tác giả nhận thức rất rõ vai trò quan trọng của lí thuyết khu
vực học cũng như phương pháp tiếp cận liên ngành trong việc giải quyết các vấn đề nghiên cứu.
Việc đánh giá tài nguyên và hiện trạng phát triển du lịch Gia Lai chỉ là bước đầu để qua đó
giúp cho tác giả có cách nhìn được đầy đủ về điều kiện cũng như thực tế của ngành du lịch địa
phương. Vấn đề quan trọng là từ đó phải tìm ra được những giải pháp góp phần thúc đẩy du lịch
Gia Lai phát triển hiệu quả nhưng phải đáp ứng được yêu cầu về phát triển bền vững. Đây là vấn
đề đòi hỏi tác giả phải nghiên cứu tìm hiểu và tổng hợp được các yếu tố, các lĩnh vực, ngành nghề
tham gia vào hoạt động du lịch nói chung trên địa bàn. Cụ thể như:
- Những định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vấn đề phát triển kinh tế - văn
hóa – xã hôi Gia Lai nói chung và phát triển kinh tế ngành du lịch nói riêng.
- Sự liên quan mật thiết của các cơ quan ban ngành từ cấp trung ương đến địa phương trong
toàn tỉnh cũng như trên địa bàn Vùng kinh tế Tây Nguyên.
- Đánh giá phát triển du lịch phải hài hòa với phát triển kinh tế nói chung và đặc biệt là
phải giữ gìn được bản sắc văn hóa của cộng đồng dân cư cũng như việc bảo vệ được môi trường tự
nhiên không ảnh hưởng đến sự bền vững của xã hội.
- Một trong những vấn đề của tỉnh Gia Lai nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung hiện
đang phải đối mặt là sự thiếu đồng bộ và không đảm bảo lợi ích hài hòa giữa phát triển kinh tế
du lịch với kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp và nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác. Cụ thể như vấn
đề thủy điện với việc phát triển du lịch ở các thác nước tự nhiên, đặc biệt là công tác bảo vệ môi
trường tự nhiên, môi trường dân sinh trong khai thác thủy điện chưa được chú trọng và quan tâm
đúng mức, vẫn còn nhiều hạn chế cần sớm khắc phục [8]. Hay như vấn đề bảo vệ rừng đặc dụng
với phát triển loại hình du lịch sinh thái, vấn đề phát triển du lịch văn hóa cộng đồng trước sự phát
triển của tốc độ đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn còn nhiều bất cập.
Thực tế, nếu tách biệt các môn khoa học khác nhau thì cũng là một cách để tác giả xây dựng
luận điểm nghiên cứu và chứng minh bảo vệ các quan điểm nhận định của mình đưa ra nhưng quả
thật nếu tách rời các kiến thức ngành riêng biệt để nghiên cứu vấn đề phát triển du lịch mà không
biết kết hợp các môn khoa học chuyên ngành lại với nhau dựa trên phương pháp nghiên cứu tiếp
cận liên ngành thì quả là thiếu sót, kém hiệu quả và chưa chắc đã đưa lại được kết quả đánh giá
khách quan, đầy đủ về đối tượng hay vấn đề nghiên cứu bởi du lịch được coi là ngành kinh tế tổng
hợp bởi các thành phần, đối tượng tham gia trong nó rất phong phú, đa dạng như:
- Khách du lịch
- Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, lưu trú, vận chuyển, nhà hàng, các khu vui chơi
giải trí. . .
189
Trần Đăng Hiếu
- Các cơ quan quản lí Nhà nước về du lịch, chính quyền sở tại.
- Các cơ quan hữu quan và các ban ngành khác
- Các đối tượng khách thể trong khai thác phát triển du lịch như tài nguyên du lịch tự nhiên,
tài nguyên du lịch nhân văn.
- . . .
Trong những năm gần đây, cùng hòa chung với sự phát triển đi lên của nhiều ngành nghề,
lĩnh vực trong xã hội thì ngành kinh tế du lịch ngày càng trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội
phổ biến, khi đời sống người ngày càng được cải thiện và nâng cao, nhu cầu đi du lịch để nghỉ ngơi
giải trí nhằm tái tạo sức lao động cũng tăng lên, không những thế, đi du lịch có thể nói đã trở thành
một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hiện đại, ở góc độ nào đó nó trở thành tiêu chuẩn để
đánh giá mức sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Việt Nam là
một đất nước có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên vô cùng phong phú đa dạng khi có vị trí địa lí
thuận lợi hội tụ được nhiều dạng thức và loại hình tự nhiên như biển đảo, sông hồ, núi non, rừng
nguyên sinh cùng với nó là hệ sinh thái động thực vật phong phú, các dạng địa hình địa chất độc
đáo mà điển hình là dạng hang động Kart. Bên cạnh đó, với lịch sử đất nước con người Việt Nam
hàng nghìn năm cũng đóng góp to lớn cho ngành du lịch những nguồn tài nguyên du lịch nhân văn
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, phong phú về di sản văn hoá, các làng nghề và các lễ hội truyền
thống gắn với các nhóm dân tộc của cả nước. Tất cả đều là các yếu tố hết sức thuận lợi cho Việt
Nam để phát triền ngành kinh tế du lịch. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang có nhiều biến chuyển,
tuy nhiên ngành nông nghiệp vẫn được coi là ngành kinh tế chính, mặc dù ngành nông nghiệp có
kim ngạch xuất khẩu gạo đứng thứ hai thứ ba trên thế giới song vẫn chưa mang lại thu nhập cao
cho người dân, bên cạnh đó là ngành công nghiệp lại cần đến lượng vốn đầu tư khoa học kĩ thuật
lớn, thời gian hoàn vốn lâu thì ngành du lịch - một ngành kinh doanh dịch vụ, được coi như là một
ngành công nghiệp không khói do lượng vốn cần đầu tư không quá nhiều và thời gian thu lợi nhuận
nhanh, đang dần trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Phát triển du lịch
không chỉ tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, đóng góp tích cực vào hoạt động xuất
khẩu tại chỗ mà còn góp phần quan trọng tạo cơ hội việc làm và thu nhập cho cộng đồng ở những
vùng còn khó khăn nhưng có tiềm năng du lịch v