Dự báo là công tác quan trọng trong rất nhiều ngành, đặc biệt là đối với các cơ quan quản lý vĩ mô trong đó có Ngân hàng trung ương. Dự báo vốn khả dụng của NHTW được thực hiện ở ngay những thời điểm đầu tiên của điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Đó là cơ sở để đưa ra những quyết định có liên quan đến khối lượng, kỳ hạn và tần suất của những hoạt động được trên thực tế để cân bằng thị trường của NHTW. Việc thực hiện dự báo là khác nhau giữa các quốc gia, nó phản ánh sự kết hợp giữa truyền thống với các yếu tố đặc trưng của mô hình hoạt động. Thông thường việc dự báo này có thể được thực hiện theo 2 phương pháp: dự báo trên cơ sở bảng cân đối tiền tệ của NHTW và dự báo trên cơ sở báo cáo của tổ chức tín dụng (TCTD).
Công tác dự báo vốn khả dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2000, tuy nhiên, quá trình tiến hành dự báo còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hạn chế khi đưa ra kết quả dự báo. Nó thể hiện một phần thông qua kết quả của nhiều phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở của NHNN không đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy, để góp phần nhận định đúng hơn về những khó khăn trong công tác dự báo vốn khả dụng của một số quốc gia và bài học với Việt Nam.
30 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 4652 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Dự báo vốn khả dụng của NTTM các nước và thực tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề: Dự báo vốn khả dụng của NHTM các nước và thực tế Việt Nam
Nhóm: 1.Phan Thị Chung - NHK.K12 (nhóm trưởng)
2. Tạ Mai Anh - NHD.K12
3. Phan Thị Cẩm Vân - NHD.K12
4. Lê Thị Ly - NHD.K12
5. Nguyễn Thị Duyên - NHD.K12
6.Hoàng Thị Hồng Bưởi - NHD.K12
MỞ ĐẦU
Dự báo là công tác quan trọng trong rất nhiều ngành, đặc biệt là đối với các cơ quan quản lý vĩ mô trong đó có Ngân hàng trung ương. Dự báo vốn khả dụng của NHTW được thực hiện ở ngay những thời điểm đầu tiên của điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Đó là cơ sở để đưa ra những quyết định có liên quan đến khối lượng, kỳ hạn và tần suất của những hoạt động được trên thực tế để cân bằng thị trường của NHTW. Việc thực hiện dự báo là khác nhau giữa các quốc gia, nó phản ánh sự kết hợp giữa truyền thống với các yếu tố đặc trưng của mô hình hoạt động. Thông thường việc dự báo này có thể được thực hiện theo 2 phương pháp: dự báo trên cơ sở bảng cân đối tiền tệ của NHTW và dự báo trên cơ sở báo cáo của tổ chức tín dụng (TCTD).
Công tác dự báo vốn khả dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2000, tuy nhiên, quá trình tiến hành dự báo còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hạn chế khi đưa ra kết quả dự báo. Nó thể hiện một phần thông qua kết quả của nhiều phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở của NHNN không đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy, để góp phần nhận định đúng hơn về những khó khăn trong công tác dự báo vốn khả dụng của một số quốc gia và bài học với Việt Nam.
Dự báo vốn khả dụng của FED
I. Giới thiệu sơ lược về bộ phận cơ quan dự báo và phương pháp dự báo của ngân hàng trung ương Mỹ
Chính sách tiền tệ của Fed gây ảnh hưởng tức thời tới cung, cầu vốn khả dụng hoặc mức lãi suất vốn liên bang, tạo ra một chuỗi các phản ứng lan truyền tác động của chính sách đó tới toàn bộ nền kinh tế. Fed có thể thay đổi tình hình thị trường thông qua sử dụng ba công cụ: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
Trên thực tế, việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày của Fed được tiến hành tại Fed New York. Để có quyết định thực hiện giao dịch nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày (khối lượng, kỳ hạn giao dịch), tại Fed New York đã thiết lập bộ phận dự báo vốn khả dụng. Hàng ngày, Bộ phận dự báo vốn khả dụng cập nhật số liệu và điều chỉnh dự báo cần thiết để phục vụ việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày. Nhìn chung, phương pháp của Fed New York trong việc dự báo các yếu tố tác động đến cung, cầu dự trữ của các ngân hàng cũng thực hiện theo phương pháp chung - theo cách tiếp cận từ bảng cân đối của NHTW.
Để thực hiện hoạt động can thiệp, các chuyên gia của Fed New York và các chuyên gia của ban lãnh đạo tại Washington, DC cần đưa ra được mục tiêu vốn khả dụng phù hợp với tinh thần chỉ đạo. Dựa vào những dự báo chi tiết về nhu cầu dự trữ và mức vay chiết khấu được ước tính trước, họ tạo ra một định hướng đối với phần dự trữ không vay Non-borrowed reseves (NBR) – tổng dự trữ trừ đi các khoản vay mượn từ Fed thông qua cửa sổ chiết khấu, hay còn gọi là mục tiêu cho từng giai đoạn duy trì dự trữ kéo dài 2 tuần – yếu tố này quyết định khoảng thời gian của việc dự báo tại Mỹ là hai tuần, tuy nhiên, việc dự báo được tiến hành hàng ngày. Định hướng trong hai tuần này liên tục được cập nhật hàng ngày khi số liệu ước tính về nhu cầu dự trữ được điều chỉnh lại.
Tuy nhiên, hàng ngày, bộ phận dự báo vốn khả dụng được các nhà đại lý cấp 1 cung cấp thông tin về tình hình thị trường và hàng tháng, các nhà đại lý cấp 1 trao đổi, đánh giá tình hình thị trường với các chuyên gia kinh tế, các khách hàng của mình và cung cấp cho bộ phận dự báo vốn khả dụng. Ngoài ra, các hoạt động liên ngân hàng tại Mỹ đều thể hiện qua sự thay đổi của Fed Funds – tiền gửi của các ngân hàng tại Fed nên Fed có điều kiện theo dõi đánh giá tình hình thị trường khá chính xác.
II. Dự báo cầu vốn khả dụng
Cầu vốn khả dụng = cầu dự trữ bắt buộc + cầu dự trữ vượt mức
1. Dự báo về dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc = tỷ lệ DTBB x số dư tiền gửi huy động
DTBB được dựa trên những tài khoản tiền gửi thanh toán giữ tại các ngân hàng thành viên. Các tổ chức này có thể DTBB dưới dạng tiền mặt hoặc gửi vào các chi nhánh của Fed. Để đảm bảo sự linh động, Fed cho phép chỉ cần giữ một lượng dự trữ bắt buộc trung bình trong khoảng thời gian duy trì 2 tuần kết thúc vào ngày thứ tư. Fed thực hiện quản lý DTBB theo phương pháp trùng hoàn toàn (đây là phương pháp quy định kỳ duy trì đồng thời cũng là kỳ xác định), kì tính toán bắt đầu vào ngày 1 và kì duy trì vào ngày 3 hàng tháng. Vì vậy, lượng tiền DTBB được duy trì tương đối ổn định từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng trong kì và dựa vào lượng tiền gửi huy động hàng ngày. Các ngân hàng báo cáo về lượng tiền gửi huy động phải tính DTBB. Bộ phận dự báo sẽ có kết quả dự báo số liệu tương đối ổn định và chính xác. Hơn nữa, trước mỗi kỳ duy trì DTBB, ngoài tiền gửi DTBB, các ngân hàng đều phải thông báo dự kiến mức dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTW, điều này tạo thuận lợi nhất định cho bộ phận dự báo vốn khả dụng của Fed New York trong việc dự báo mức dự trữ cần thiết của toàn hệ thống.
Theo đó thực tế
- FED da dự báo lượng cầu vốn khả dụng ngày 7/1/2010 là 1.700.500 triệu USD, tăng 167.372 triệu USD so với lượng cầu vốn khả dụng của tháng 10/2008
- Trong đó ngân hàng trung ương Mỹ dự báo được sự thay đổi về dự trữ bắt buộc là 57620 triệu USD và cầu về dự trữ vượt mức thay đổi là 109752 triệu USD so với tháng 10/2008
III. Dự báo cung vốn khả dụng
Cung vốn khả dụng = (NFA + NCG +OiN – Tiền ngoài NHTW) + CDMB
1. Tài sản có ngoại tệ ròng và các khoản khác ròng
Tại bảng cân đối của FED 2 khoản mục này nằm trong mục các dự trữ liên bang tài sản. Trong năm 2010 là năm khôi phục nền kinh tế nên tổng 2 tài khoản này tăng lên theo
Do đó Dự báo cho năm 2010: tổng tài sản có ngoại tệ ròng và khoản mục khác ròng tăng
2. Cho vay chính phủ ròng
Cho vay chính phủ ròng = cho vay chính phủ - tiền gửi chính phủ
Ngân sách của chính phủ là do tổng thống đề xuất với quốc hội Hoa Kỳ mà đề nghị cấp kinh phí cho việc tiếp theo năm tài chính bắt đầu từ 1/10 kết thúc vào 30/9 năm kế tiếp
a) Dự báo cho vay chính phủ: căn cứ vào tình hình thu chi ngân sách ta xác định được
- tổng thu
- tổng chi: chi bắt buộc, chi tùy ý
Cho vay = chi đầu tư + chi trả – các khoản vay – khoản phát hành –
chính phủ thường xuyên nợ mới từ NHTM CK mới CP
ròng
vay mới nước ngoài
b) Dự báo tiền gửi chính phủ tại FED:
Kho bạc Mỹ duy trì một tài khoản tại Fed để đáp ứng nhu cầu thu chi. Kho bạc luôn cố gắng duy trì ổn định số dư tài khoản tại Fed để giảm bớt khó khăn của Fed trong việc quản lý vốn khả dụng. Do có quan hệ chặt chẽ với kho bạc và hệ thống thông tin, số liệu của kho bạc cập nhật hàng ngày nên hàng ngày, Fed có thể trao đổi thông tin với kho bạc và việc dự báo tác động của thu chi ngân sách, tiền gửi chính phủ đến dự trữ của các ngân hàng rất thuận lợi. Ngoài ra, Fed New Y ork có một hệ thống cơ sở dữ liệu rất đầy đủ, làm cơ sở xây dựng mô hình dự báo một số yếu tố như mức dự trữ vượt tiền trong lưu thông.
3. Tiền ngoài ngân hàng trung ương
Nhìn chung xu hướng thanh toán của người tiêu dùng sử dụng tiền mặt đang giảm nhanh hơn, 97% là chuyển dịch theo hướng tín dụng, thẻ ghi nợ, quà tặng, thẻ trả trước đặc biệt là sự phát triển của thẻ ghi nợ
Trong năm 2010 được coi là năm khôi phục nền kinh tế của mỹ nên lượng tiền cung ứng trong lưu thông sẽ tiếp tục tăng. Do vậy, dự báo tiền ngoài ngân hàng trung ương năm 2010 tăng
Cuối cùng: xác định chênh lệch cung cầu vốn khả dụng và đưa ra quyết định
IV. Những chính sách mà Mỹ áp dụng trong năm 2010 nhằm điều chỉnh vốn khả dụng
1. Nghiệp vụ thị trường mở
- Ngày 28/6/2010 trao đổi phiếu giảm giá chứng khoán.
- 3/11/2010 bản tuyên bố về mua chứng khoán kho bạc
FOMC chỉ đạo bàn giao dịch thị trường mở tại ngân hàng dự trữ liên bang newyork để mua thêm 600.000.000.000$ của chứng khoán dài hạn kho bạc vào cuối quý II năm 2010
2. Cho vay
- Ngày 11/1/2010 cục dự trữ liên bang sẽ cung cấp 75 tỷ USD tín dụng 28 ngày qua hạn đấu giá cơ sở của nó
- Ngày 8/2/2010 cục dự trữ liên bang sẽ cung cấp 50 tỷ USD tín dụng 28 ngày qua hạn đấu giá cơ sở của nó.
- Ngày 18/2/2010 những thay đổi để các cơ sở chiết khấu
3. Dự trữ
Bảng 02: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ (tháng 12/2010)
Yêu cầu dự trữ
Loại trách nhiệm
Yêu cầu
% Của các khoản nợ
Ngày có hiệu lực
Tài khoản giao dịch thuần
$ 0 đến $ 10.700.000
0
30/12/2010
Nhiều hơn $ 10.700.000 đến 58.800.000 $
3
30/12/2010
Nhiều hơn $ 58.800.000
10
30/12/2010
Nonpersonal tiền gửi thời gian
0
27/12/1990
Eurocurrency nợ
0
27/12/2010
Nguồn:
Các ngân hàng thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định, trong đó có những khoản được miễn dự trữ bắt buộc với mục đích cụ thể của NHTW
V. Hiệu quả các can thiệp của Mỹ đến nền kinh tế
Nghiệp vụ thị trường mở
- Cùng với bản tuyên bố về mua chứng khoán kho bạc, FED đã công bố một kế hoạch nới lỏng định lượng mới, theo đó bơm 600 tỷ USD để mua trái phiếu kho bạc. Mục đích của FEDlà tăng cung vốn khả dụng kích thích kinh tế phục hồi.
- Mặc dù vậy tốc độ tăng trưởng của mỹ mới chỉ 2% trong quý 3 so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp bị mắc kẹt ở 9,6%. FED chịu áp lực phải hành động đê kích thích các hoạt động trong nền kinh tế diễn ra mạnh hơn
- Chính sách nới lỏng định lượng của FED có thể tác động bất lợi tới tính thanh khoản của thị trường trái phiếu kho bạc Mỹ
Cho vay
Ngày 18/2 FED tiến hành biện pháp then chốt nhằm bình thường hóa chính sách tiền tệ bằng cách nâng lãi suất tái chiết khấu đối với các khoản vay khẩn cấp thêm 0,25%. Việc nới lỏng lãi suất chiết khấu cùng với việc nâng lãi suất tái chiết khấu nhằm tăng cung ứng vốn ra thị trường. Mà mục đích cuối cùng cũng là thúc đẩy nền kinh tế hậu khủng hoảng
Dự trữ
FED quyết định tăng tỷ lệ quỹ liên bang trước khi kết thúc năm
Trong lợi ích của mỹ duy trì một tỷ lệ thấp sẽ giữ cho đồng tiền của mình cạnh tranh hơn về mặt xuất khẩu và tăng thặng dư thương mại do đó làm tăng việc làm
VI. Liên hệ Việt Nam
* Trong bối cảnh áp lực lạm phát. Những tháng cuối năm 2010 thị trường tiền tệ, thị trường vàng, ngoại tệ diễn biến phức tạp, cung cầu ngoại hối bất cân đối gây sức ép lên tỷ giá, lãi suât ngân hàng tăng cao
* Các kinh nghiệm rút ra
Ngân hàng nhà nước nên chủ động hơn trong điều hành chính sách tiền tệ
Phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam tạo ra môi trường thuận lợi để ngân hàng nhà nước quản lý vốn khả dụng hiệu quả
Lãi suất: NHNN Việt Nam không thể giảm sâu mức lãi suất cơ bản ngay trong tình hình suy thoái kinh tế
Công cụ chính sách tiền tệ: NHNN tiếp tục đẩy mạnh hình thức cho vay thấu chi trên hệ thống thanh toán liên ngân hàng, đa dạng hóa các giấy tờ có giá dùng để thế chấp, chiết khấu
Kết luận
Khối lượng vốn khả dụng là nguồn vốn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại. Tình trạng dư thừa hay thiếu hụt vốn khả dụng đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán, uy tín của các ngân hàng
Thị trường LNH càng phát triển, cơ chế điều hành lãi suất càng tự do thì OMO càng phát huy hết tính linh hoạt trong điều tiết vốn khả dụng. Các công cụ, chính sách còn lại như chính sách cho vay, DTBB, tiền cơ sở càng ít được sử dụng hoặc để hỗ trợ cho OMO.
Kinh nghiệm của NHTW Malaysia
Malaysia sử dụng dự báo vốn khả dụng bằng cách kết hợp phương pháp dựa trên cơ sở báo cáo TCTS và kết hợp hai phương pháp.
NHTW Malaysia giữ tiền gửi của của Chính phủ . Đây là một công cụ hiệu quả để quản lý tiền tệ, không chỉ kiểm soát nguồn vốn khả dụng mà còn đảm bảo rằng hoạt động của chính phủ đồng nhất với hoạt động của NHTW. Việc NHTW bắt đầu giữ trở lại tiền gửi chính phủ năm 1990 là một trong những biện pháp chính đưọc thực hiện trong thời kỳ 1990-1996 để đảm bảo rằng chính phủ không gửi tiền tại hệ thống ngân hàng một cách không cần thiết làm ảnh hưởng đến việc thắt chặt tiền tệ của NHTW trong giai đoạn đó. Theo quy định này, NHTW Malaysia sẽ quản lý tiền của chính phủ, với mức lãi suất phù hợp và hạn chế tình trạng dư thừa vốn khả dụng. Khi vốn khả dụng thiếu, NHTW Malaysia có thể lại bơm những khoản tiền gửi này ra hệ thống ngân hàng. Một thoả thuận tương tự cũng đã được lập với Quỹ hỗ trợ việc làm kể từ tháng 2/1992. Phù hợp với định hướng thị trường, lãi suất trả cho hai tài khoản này là lãi suất thị trường &rdquo
Năm 2002, Malaysia đã hình thành một trung tâm kiểm soát tính thanh khoản nhằm cho phép các ngân hàng hồi giáo có thể xử lý nhu cầu thanh khoản của mình. Chỉ có những ngân hàng hồi giáo, ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư mới được phép tham gia vào thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo. Sự ra đời của thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo đã đóng góp vai trò quan trọng trong thị trường tiền tệ Malaysia. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo được xem là như một trung gian về vốn ngắn hạn, cung cấp nguồn vốn đầu tư ngắn hạn dựa trên nguyên tắc Shariah. Thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo và các ngân hàng tham gia trong hệ thống Islamic Banking Scheme – hệ thống phân phối các ngân hàng hồi giáo, có thể đáp ứng các yêu cầu huy động vốn một các huy động vốn hiệu quả.NHTW Malaysia đã ban hành hướng dẫn chỉ đạo cho thị trường liên ngân hàng hồi giáo vào ngày 18/12/1993 để giúp cho quá trình thực hiện của IIMM được dễ dàng và hiệu quả.
Hiện nay, thị trường tiền tệ Malaysia vẫn tồn tại hai thị trường liên ngân hàng nhưng trong đó hoạt động của thị trường liên ngân hàng hồi giáo chiếm phần lớn giao dịch trong các hoạt động thị trường tiện tệ liên ngân hàng Malaysia. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng quy ước vẫn được duy trì để đáp ứng nhu cầu của các ngân hàng không thuộc hệ thống ngân hàng hồi giáo. Hai thị trường này hoạt động thống nhất dưới sự kiểm soát của NHTW Malaysia.
NHTW Malaysia xây dựng Nhóm làm việc về CSTT gồm các đại diện các vụ như vụ CSTT và tài chính,Vụ pháp chế,Vụ kinh tế, Vụ đầu tư và Thị trường tài chính,Vụ quản lý ngoại hối. Trên cơ sở các ý kiến của Nhóm làm việc theo định kỳ 2 tháng/1 lần Ủy ban CSTT họp bàn để ra các quyết định về điều hành CSTT, trong đó có việc điều hành các công cụ CSTT như DTBB, Nghiệp vụ thị trường mở, can thiệp trực tiếp của BNM dưới hình thức vay và cho vay trên thị trường liên ngân hàng…Bộ phận dự báo vốn khả dụng trực thuộc Vụ đầu tư và Thị trường tài chính . Hàng ngày công việc dự báo của bộ phận này đơn giản chỉ tổng hợp kết quả báo cáo của TCTD và đưa ra dự báo diễn ra sự biến động trạng thái vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trên cơ sở các dự báo từ các TCTD. Số liệu báo cáo được truyền qua hệ thống nối mạng trực tuyến giữa BNM với các TCTD.
Việc dự báo vốn khả dụng của các ngân hàng chủ yếu dựa vào cơ sở luồng tiền hàng ngày dựa trên bảng cân đối của các ngân hàng gồm việc theo dõi, phân tích thời hạn thanh toán của từng danh mục tài sản có và tài sản nợ. Do yếu tố tôn giáo có ảnh hưởng tới những yếu tố điều hàng nên nagy cả thời gian giao dịch và làm việc của không chỉ NHTW mà cả các hoạt động khác của chính phủ thường bắt đầu muộn hơn so với các nước khác do buổi sáng là thời gian cầu nguyện của các tín đồ.
+)Thực tế 4/3/2010 trước tình hình dự báo vốn khả dụng và tình hình kinh tế, tại phiên họp của Ủy ban Chính sách Tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Malaysia (BNM) đã quyết định tăng lãi suất chính sách qua đêm từ 2% lên mức 2,25%.
Đây là lần đầu tiên BNM tăng lãi suất này trong vòng 4 năm qua. Điều này thể hiện sự thay đổi quan điểm từ chính sách tiền tệ nới lỏng sang chính sách tiền tệ thắt chặt hơn của ngân hàng trung ương nước này trong bối cảnh kinh tế Malaysia đang phục hồi.
Malaysia là nước thứ 2 ở Đông Nam Á tăng lãi suất sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trước đó, vào tháng 12/2009, Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản.
Vào tháng 11/2008, Malaysia đã phải giảm lãi suất do những tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sau đó, BNM đã 2 lần giảm lãi suất vào các tháng 1 và 2/2009, với mức cắt giảm tổng cộng lên tới 1,5 %. BNM đã giữ nguyên mức lãi suất thấp 2% kể từ tháng 2/2009.
Malaysia đã tăng lãi suất trong bối cảnh nhu cầu nội địa ở nước này đã tăng nhờ các biện pháp kích thích kinh tế của Chính phủ và kim ngạch xuất khẩu hồi phục.
+)Theo Báo cáo năm 2011 của Negara, chính sách này sẽ tập trung vào đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng kinh tế trong một môi trường ổn định giá cả khi nền kinh tế phải đối mặt với tăng nguy cơ sụt giảm tăng trưởng trong bối cảnh áp lực lạm phát nhẹ nhàng hơn.
Theo Negara, tính thanh khoản trong hệ thống tiền tệ quốc tế đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây tiếp theo sự nới lỏng chính sách tiền tệ ở quy mô chưa từng có của các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế tiên tiến lớn. Thay đổi lớn của tính thanh khoản này đã dẫn đến dòng vốn ra vào lớn đáng kể của các khoản danh mục đầu tư đến và từ các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Malaysia. Tuy nhiên, Malaysia có thế mạnh để giải quyết những thách thức này, theo các biện pháp như phát triển hệ thống tài chính đa dạng hơn, linh hoạt điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi điều kiện thay đổi, dự trữ ngoại tệ đủ lớn để làm giảm biến động thị trường, cải thiện khả năng quản lý thanh khoản trong nước và hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng trung ương trong khu vực cũng như tăng cường khả năng quản trị rủi ro bắt nguồn từ dòng vốn của ngân hàng. Ngày 21/3, Negara đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế nước này năm 2012 từ 5-6% xuống 4-5% trong bối cảnh kinh tế toàn cầu yếu kém. Năm 2011, kinh tế Malaysia tăng trưởng 5,1%, chậm lại đáng kể so với mức tăng 7,2% năm 2010.`
Dự báo vốn khả dụng của Việt Nam
Cơ sở pháp lý
Ngày 24/1/2000, NHNN ban hành quyết định 37/2000/QĐ-NHNN1 về quy chế quản lý VKD.
Theo quyết dịnh này quản lý VKD cảu NHTM tại NHNN là sự kiểm soát của NHNN đối với sự thay đổi tiền gửi của các NHTM tại NHNN và thông qua việc sử dụng các chính sách tiền tệ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến khả năng thanh toán của NHTM nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Sau đây là một số nội dung trong dự báo vốn khả dụng của NHNN Việt Nam:
Cơ quan dự báo vốn khả dụng
Theo điều 9 quyết định 37, cơ quan chịu trách nhiêm dự báo vốn khả dụng là vụ chính sách tiền tệ thuộc NHNN. Vụ chính sách tiền tệ phải có trách nhiệm:
Tập hợp số liệu và thông tin về thu chi ngân sách từ Bộ Tài chính, các số liệu và thông tin từ các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các nguồn thông tin khác.
Dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước .
Xác định mức vốn khả dụng cần duy trì của các tổ chức tín dụng, đưa ra kiến nghị cho việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở theo kỳ dự báo.
Các nghiệp vụ quản lý vốn khả dụng
Theo điều 3 quyết định 37 năm 2000:
Tổ chức thu thập lưu giữ các thông tin liên quan đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
Phân tích và dự báo sự thay đổi vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
Xác định mức vốn khả dụng cần duy trì của các tổ chức tín dụng để đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ và đưa ra các kiến nghị cho việc quyết định mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước trên thị trường mở.
Dự đoán các diễn biến tiền tệ trong thời gian tới và tìm nguyên nhân để Ngân hàng Nhà nước có các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ cho phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ.
Như vậy, công tác dự báo vốn khả dụng là một phần trong công tác quản lý vốn khả dụng. Kết quả dự báo sẽ giúp NHNN có những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
Kỳ dự báo
Theo điều 1 nghị định 38 năm 2000:
- Kỳ dự báo vốn khả dụng là 3 kỳ trong một tháng. Kỳ thứ nhất từ ngày 01 đến ngày 10 của tháng. Kỳ thứ hai từ ngày 11 đến ngày 20 của tháng. Kỳ thứ ba từ ngày 21 đến ngày cuối tháng.
- Trường hợp các ngày 01, 11, 21 trùng vào ngày nghỉ làm việc theo quy định thì kỳ