Tiểu luận tư tưởng triết học của Nho gia

Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào ba rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua- tôi, cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha- chồng xếp ở hàng làm chủ. ”.Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia. Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng- tôi hiền, cha từ- con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên. Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự.”. Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lế” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức. Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con. nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính danh. Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.” Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua Trụ. Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý nhân sinh của ông. Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang trải qua những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá con người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có nhân theo Khổng Tử là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả”. Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. là “mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” , “việc gì mình không muốn chớ đem cho người”.

doc8 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận tư tưởng triết học của Nho gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên