Tính cách nổi bật của báo chí Việt Nam trước 1945 là tính cách thuộc
địa. Tính cách này quán xuyến và chi phối toàn bộ nền báo chí từ khi nó nảy sinh
đến khi chế độ thuộc địa bị sụp đổ bởi cơn lốc của cuộc Cách mạng tháng Tám
1945 long trời chuyển đất.
Đúng là trước khi người phương Tây đến ở nước ta chưa có báo chí với đúng
ý nghĩa của nó.
Thực sự, báo chí chỉ xuất hiện khi có cuộc xâm lăng của chủ nghĩa thực dân
và phát triển. Chúng thực hiện một cuộc “Công nghiệp hóa cưỡng bức” và áp đặt
“Văn minh phương Tây cưỡng chế” phục vụ cho cuộc xâm lăng văn hóa kèm theo.
13 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2465 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về Báo chí Việt Nam trước năm 1945 (phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng quan về Báo chí Việt
Nam trước năm 1945 (phần 1)
TỔNG LUẬN VỀ LỊCH SỬ BÁO CHÍ VIỆT NAM
TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1945
(Tài liệu tham khảo đặc biệt)
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BÁO CHÍ
1. Tính cách nổi bật của báo chí Việt Nam trước 1945 là tính cách thuộc
địa. Tính cách này quán xuyến và chi phối toàn bộ nền báo chí từ khi nó nảy sinh
đến khi chế độ thuộc địa bị sụp đổ bởi cơn lốc của cuộc Cách mạng tháng Tám
1945 long trời chuyển đất.
Đúng là trước khi người phương Tây đến ở nước ta chưa có báo chí với đúng
ý nghĩa của nó.
Thực sự, báo chí chỉ xuất hiện khi có cuộc xâm lăng của chủ nghĩa thực dân
và phát triển. Chúng thực hiện một cuộc “Công nghiệp hóa cưỡng bức” và áp đặt
“Văn minh phương Tây cưỡng chế” phục vụ cho cuộc xâm lăng văn hóa kèm theo.
Ngay từ khi cho xuất bản những tờ báo đầu tiên ở Xứ Nam Kỳ, vào thập kỷ
60, 80 thế kỷ XIX, cùng với việc đặt nền móng cho chế độ thuộc địa, thực dân
Pháp đã công khai bộc lộ ý định đưa thứ vũ khí lợi hại này của văn minh phương
Tây vào nước ta với mục đích phổ biến, tuyên truyền cho các chính sách Soát phủ
Nam Kỳ và của Chính phủ phổ biến chữ Quốc ngữ, qua đó chinh phục trái tim,
khối óc bằng sức mạnh của văn minh kỹ thuật mới lạ, trước hết là giới trí thức,
quan lại bản xứ.
Dần dần, những mục tiêu đặt ra với giới báo chí còn cụ thể và thâm độc hơn,
đặc biệt từ khi A. Sarraut sang làm Toàn quyền Đông Dương lần đầu tiên, trong
chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Đó là mưu đồ qua phương tiện báo chí góp phần loại bỏ hoàn toàn chữ
Hán, phương Tây hóa giới Nho sĩ vốn luôn coi văn minh Trung Hoa là hệ thống
qui chiếu duy nhất, đồng thời hạn (hết p.217) chế những ảnh hưởng tiến bộ của
Tân thư, Tân báo và của chính tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây.
Từ đầu những năm 20, khi ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin đã xâm nhập
vào Việt Nam do sự truyền bá tích cực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và của
VNTNCMĐCH thì báo chí trong tay giới thực dân và tài phiệt lại đi đầu trong việc
công kích, bôi nhọ cách mạng và cổ súy cho chủ nghĩa “Pháp - Viêt đề huề”, cho
sứ mạng cao cả của nước Đại Pháp ở Đông Dương...
Chính vì sinh ra trong môi trường thuộc địa, nói chung báo chí nước ta lúc
đó không thể có tự do báo chí, một trong những giá trị của nền dân chủ tư sản
phương Tây sau thắng lợi của các cuộc cách mạng. Trong suốt thời kỳ đô hộ,
chính sách báo chí của giới thực dân cơ bản là không thay đổi, tất cả nhằm
kiểm soát chặt chẽ sinh hoạt báo chí, chế độ thực dân hà khắc về bản chất là
không thể dung hòa với sự tự do báo chí và chúng chỉ có thể nới tay dung dưỡng
bọn bồi bút tay sai tự do phục vụ nhà cầm quyền.
Lên án chế độ báo chí của thưc dân Pháp ở nước ta thì nhiều, nhưng có lẽ
đoạn văn dưới đây của tờ L'Ere Nouveelle ra ngày 17/12/1927 là khá tiêu biểu.
“Chánh quyền thực dân áp dụng những nguyên tắc lạc hậu, dùng các phương
tiện ngoài sức tưởng tượng để khóa miệng báo chí Việt ngữ. Giấy phép ra báo thì
thỉnh thoảng mới cấp hoặc không cấp ra. Kế đó có Sở kiểm duyệt, một Sở làm việc
hăng hái và tận tụy để cắt xén tàn nhẫn những bài báo không chịu ca ngợi những
thành quả tốt đẹp của chế độ...
Quyền tự do báo chí là quyền thiêng liêng, lòng yêu sự thật cũng là quyền
thiêng liêng. Chính phủ thuộc địa đã cố che dấu tội lỗi bằng cách dùng những thủ
đoạn độc tài thì ta không còn danh từ nào để gọi (hết p.218) với chế độ kiểm duyệt,
Nhà nước khóa miệng những ai dám ghĩ sâu xa và dám nói thẳng sự việc. Nếu ký
giả nào không viết bằng Việt ngữ mà viết bằng Pháp ngữ thì Nhà nước lên án gọi
đó là bọn vô chính phủ, làm cách mạng, rồi bỏ tù người viết, để cho những người ở
chính quốc biết rằng ở thuộc địa có điều hay, điều tốt chẳng ai tìm được điều gì
xấu xa...
Với quyền hạn sẵn có, bọn thực dân ngăn cấm không cho người viết được
quyền viết bằng Việt ngữ. Mọi thủ đoạn quanh co lừa đảo, không xứng đáng là một
dân tộc bằng tự hào đã sản sinh ra những trí thức chân chính như J. Jaures,
Voltaire...
Ôi ! chính sách khai hóa ! Nhân danh mi người ta đã phạm bao nhiêu tội ác
!”1[1].
Thực ra, dù làm báo tiếng Việt hay tiếng Pháp, nếu là báo dũng cảm chống
thực dân, ủng hộ phong trào yêu nước và cách mạng, thảy đều bị đàn áp, phạt vạ và
tù đầy.
Chính vì thế, chúng ta dễ hiểu rằng, lên án chính sách bóp nghẹt tự do báo chí,
ngôn luận của chủ nghĩa thực dân là tiếng nói chung của nhiều nhà cách mạng
nước ta từ đầu thế kỷ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau. Đó là sự tố cáo mạnh
mẽ từ Phan Bội Châu đến Nguyễn An Ninh, từ Huỳnh Thúc Kháng đến Phan Văn
Trường, từ báo Thanh Niên đến Dân Chúng, từ Ngày Nay đến Tri Tân. Và đặc biệt,
dưới ngòi bút sắc sảo, đanh thép của Nguyễn Ái Quốc trên nhiều tờ báo khác nhau
ở Paris, Mátxcơva, Quảng Châu và chiến khu Việt Bắc.
Môi trường thuộc địa cũng đã hạn chế sự phát triển của báo chí trên nhiều
phương diện xã hội và tâm lý, kỹ thuật và nghề nghiệp (hết p.219).
Nói về những nguyên nhân của sự cản trở của hoạt động báo chí trong môi
trường đó, Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, chủ bút tờ Tiếng Dân đã đưa ra sự phân tích
khá khái quát:
“ - Thiếu tài liệu cho Bộ biên tập làm việc: Muốn viết bài xã luận hay tờ báo
cần nhiều tài liệu. Riêng tờ Tiếng Dân thì tài liệu thiếu thốn quá nhiều. Tài liệu là
yếu tố quan trọng cho bất cứ tờ báo nào.
- Đường giao thông khó khăn. Muốn được độc giả chú ý, tờ báo cần có tin tức
hàng ngày. Phương tiện giao thông ở xứ ta còn yếu kém, muốn đi từ Nam ra Bắc,
phải tốn 5, 7 ngày, vùng thôn quê, vùng sơn cước lại là nơi khó tới lui. Như vậy
làm sao thu thập tin tức?
- Nạn mù chữ: Báo sống nhờ độc giả, ở Trung Kỳ, ngoại trừ thành thị, chỉ có
10 phần trăm dân chúng biết đọc ở thôn quê. Bởi vậy người ta đọc báo rất ít.
- Sự yếu kém về kỹ nghệ và thương mại: Báo phát triển mạnh khi giới doanh
thương chú ý đến nó. Giới doanh thương cần quảng cáo hàng hóa trên báo và họ
cần sự giúp đỡ cho tờ báo được sống! ở xứ ta, thương mại và kỹ nghệ hầu như
không có vậy thì tờ báo làm sao đứng vững lâu dài nếu thiếu người chịu đăng
quảng cáo.
- Hiện tượng tâm lý: ở những nước tiên tiến, báo chí được phồn thịnh nhờ tất
cả mọi người đọc báo, từ kẻ doanh nghiệp đến người lao động, từ văn sĩ đến chính
trị gia. Báo chí nhờ đó mà trở thành một lực lượng đáng kể. Nhưng ở xứ ta, thấy ít
nói đến báo chí và thích đọc báo. Không được dư luận công chúng biết đến thì báo
khó mà sống dai được”2[2] (hết p.220)
Đó là với báo chí công khai, hợp pháp. Còn đối với báo chí cách mạng thì còn
biết bao khó khăn khác, kể cả người làm báo – chiến sĩ - cho đến bạn đọc báo -
quần chúng cách mạng đều có thể bị bắt bớ, tù đầy.
2. Nhưng tất nhiên là báo chí Việt Nam vẫn phát triển, và phát triển khá
nhanh theo những qui luật nội tại của nó.
Báo chí luôn gắn liền với đời sống xã hội, là nhịp thở của xã hội. Hơn 80 năm
thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp đã diễn ra biết bao sự thay đổi to lớn về kinh
tế - xã hội. Hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất, 1897 - 1914 và lần thứ hai,
1919 - 1929) đã phá vỡ mô hình xã hội cổ truyền, chủ nghĩa tư bản dưới hình thái
thực dân đã chế ngự mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Cùng với sự phát trịển công
thương nghiệp tư bản chủ nghĩa là quá trình đô thị hóa. Sự phát triển của bộ máy
hành chính Pháp và cả Nam Triều cũng làm tăng thêm số thị dân bao gồm quan lại,
viên chức, tiểu thương, học sinh, sinh viên...
Khi các lực lượng xã hội mới ra đời, nhất là giai cấp tiểu tư sản thành thị sẽ
nẩy sinh nhu cầu và là giới độc giả quan trọng bậc nhât của báo chí.
Hơn nữa, các giai cấp mới (công nhân, tư sản và tiểu tư sản) vừa ra đời đã bộc
lộ nhu cầu thể hiện mình, lao vào những cuộc đấu tranh chính trị, xã hội và kinh tế
mà vũ khí báo chí là thứ mà họ cần đến.
Đó là chưa kể về phương diện tư tưởng, văn hóa, Cuộc tiếp xúc và đụng độ
với văn minh phương Tây ở nước ta hàng thế kỷ, nay đã bươc qua giai đoạn mới.
Cùng với sự thay thế của chủ nghĩa thực dân với hàng loạt chính sách văn hóa -
giáo dục, văn minh phương Tây, mô hình văn hóa Pháp dần chiếm ưu thế, nhất là
khu vực thành thị... Chính vì thế, báo chí vốn là một trong những phương tiện văn
hóa - thông tin của văn minh phương Tây, tràn vào nước ta đầu tiên và ngày càng
phát triển (hết p.221).
Liên quan chặt chẽ đến nghề làm báo là nghề in và xuất bản. Từ những cơ sở
nhà in đầu tiên từ 1962 của nhà binh và Giáo hội Công giáo, sau đó là hoàn toàn
trong sự thao túng của giới tài phiệt người Âu như F.H. Scheneider và O.Honberg,
các nhà tư sản Việt Nam cũng dần len chân vào nghề này. Chỉ riêng ở Hà Nội và
thập kỷ 30, 40 đã có những nhà xuất bản khá lớn của họ như: Tân Dân Nam Ký,
Minh Phường, Công Lực, Lê Cường Trung Bắc... Các nhà xuất bản ấy đều có nhà
in và kèm theo là các tờ báo như nhà Trung Bắc là tờ Trung Bắc Chủ Nhật, mà Tân
Dân là Tiểu thuyết Thứ Bẩy, nhà Lê Cường là Tiểu Thuyết Thứ Năm, nhà Nam Ký
là Khuyến Học...
Về đại thể, sự phát triển trong khoảng 80 năm đó của báo chí nước ta, chia ra
như sau:
a). Giai đoạn 1865 - 1907: Giai đoạn hình thành của báo chí, trong đó có cái
nôi là Nam Kỳ với tờ báo mở đầu là Gia Định Báo.
Tờ Đăng Cổ Tùng Báo (1907), tục bản của Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo
(1893), tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Hà Nội3[3] đã kết thúc giai đoạn này với
khoảng 10 tờ báo trong cả nước.
b). Giai đoạn 1907 - 1918: Số lượng báo tăng lân khoảng 30 tờ trong đó Đông
Dương Tạp Chí (1913) và Trung Bắc Tân Văn (1915) được coi là “mở ra một kỷ
nguyên mới cho báo chí xứ này”. Loại tạp chí khảo cứu trưởng thành vượt bậc với
tạp chí Nam Phong (1917) (hết p.222).
c). Giai đoạn 1919 -1930: Thời kỳ sôi động của báo chí Việt Nam trên cả lĩnh
vực văn hóa - xã hội và chính trị. Với khoảng 100 tờ báo (cả tiếng Việt và tiếng
Pháp), báo chí không chỉ phát triển, phân hóa theo thể loại như nhật báo, báo định
kỳ, báo chuyên biệt cho các giới, mà còn phân hóa theo khuynh hướng chính
trị: Các tờ báo khuynh tả (đối lập) ghi dấu son trong lịch sử báo chí: Le Cloche
fêlée. L’ Annam. Người Nhà Quê. Đông Pháp Thời Báo...
Báo chí bí mật, bất hợp pháp - dòng báo chí cách mạng của Đảng ta - Xuất
hiện với tờ báo Thanh Niên nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung
Quốc) số 1 ngày 21/6/1925.
d). Giai đoạn 1930 - 1945: Đây là giai đoạn cuối cùng của nền báo chí thuộc
địa, giai đoạn mà báo chí Việt Nam đạt con số cao nhất, trên 400 tờ vào những
năm 1938 - 1939. Con số này có giảm khi quân Nhật tràn vào Đông Dương, nhưng
đến Cách mạng tháng Tám thành công, con số là trên 200 tờ.
Dòng báo công khai, hợp pháp càng có sự phân hóa sâu sắc theo những mầu
sắc chính trị - xã hội khác nhau và nở rộ các loại báo chuyên biệt cho từng giới,
nghề nghiệp, tôn giáo, giải trí v.v...
Đặc biệt, sự trưởng thành của báo giới được thể hiện ở con số người làm báo,
cơ cấu xã hội và nghề nghiệp của họ và tính cách hiện đại hóa càng tăng thêm. Báo
được in ra với đủ loại ngôn ngữ, đủ loại báo và chí, đặc biệt phát triển loại tạp chí
chuyên ngành, đã có báo nói (trong tay quân đội Pháp), báo đã bắt đầu in mầu,
nhiều ảnh và khá mỹ thuật...
Điều này có vẻ như “mâu thuẫn” với thực tế cuộc chiến tranh thế giới cứ đến
dần và không khí cách mạng thực sôi sục (hết p.223).
Nêu như khi ra tờ Đông Tây cuối thập kỷ 20, Hoàng Tích Chu còn lo lắng:
“Làm báo ở nước nhà chưa thể gọi là môt nghề được... Cho đến hồi người làm báo
cũng như một người lao động khác, ăn lương tháng hay tính tiền công, ta vẫn coi
như một món phụ trong đời kiếm sống: bần cùng mới đi làm báo...”, thì đến đầu
thập kỷ 40, Nguyễn Vỹ đã có thể say sưa mô tả “kỹ năng làm báo” khá hiện đại
theo lối Âu - Mỹ và cho rằng “nó đã gây được ảnh hưởng lớn trong quần chúng
Việt Nam về mọi phương diện...”4[4].
3. "Báo chí Việt Nam trước 1945 không phải là một khái niêm thuần
nhất.
Bên cạnh dòng báo công khai, hợp pháp mà không ít tờ được “Nhà nước thực
dân” bảo trợ, dung dưỡng, dần dần đã xuất hiện dòng báo bí mật, bất hợp pháp,
dòng báo Cách mạng chủ yếu của Đảng Cộng sản Đông Dương mà người khai sinh
ra nó là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Báo chí cách mạng Việt Nam hình thành ở nước ngoài (Pháp, Trung Quốc,
Liên Xô và cả ờ Đông Bắc Thái Lan nữa) với tờ báo tiên phong là Thanh Niên
(6/1925) ở Quảng Châu.
Hoạt động chủ yếu trong điều kiện bí mật, vô cùng thiếu thốn, với nguyên tắc
báo chí của Lênin: “báo chí cách mạng không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ
động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể” được sự chăm sóc của Đảng ta, nó
lớn lên với sức Phù Đổng.
Từ những tờ báo đơn sơ, in sáp, in thạch (litô) tiếng nói của các cơ sở đảng,
dần dần báo chí cách mạng phong phú, đa dạng (hết p.224) hơn, đặc biệt thời kỳ
Mặt trận Dân chủ (1938 - 1939). Từ đầu thập kỷ 40, với sự ra đời Mật trận Việt
Minh, báo chí cách mạng có thêm một hệ thống nữa là “báo của Mặt trận Việt
Minh” với những tờ báo có tiếng như Cứu Quốc; Việt Nam Độc Lập, Kèn Gọi
Lính, Độc Lập, Kháng Nhật v.v... bên cạnh những tờ báo lớn của Đảng như Cờ
Giải Phóng, Tạp Chí Cộng Sản...
Chỉ đến 1945, những người mác xít Việt Nam, chính những nhà báo - nhà
cách mạng đã có 3 thế hệ. Thế hệ đầu tiên chính là Nguyễn Ái Quốc, người khai
sáng dòng báo này, bên cạnh là những Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Tạo, Bùi Công
Trừng... Thế hệ thứ hai, thế hệ Mặt trận Dân chủ Đông Dương “với những Trường
Chinh, Nguyễn Văn. Cừ, Trần Huy Liệu, Hải Triều, Võ Nguyên Giáp, Trần Đình
Long”.
Thế hệ thứ ba “thế hệ Cách mạng tháng Tám là những Thép Mới, Hoàng
Tùng, Xuân Thủy, Tố Hữu, Quang Đạm, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài...”. Thế hệ
này sẽ đóng vai trò chủ lực cho 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc: Kháng chiến
chống Pháp (1946 - 1954) và chống Mỹ giải phóng Miền Nam (1954 - 1975).
Báo chí cách mạng là dòng báo của tương lai. Nhưng ngay trước khi nắm
chính quyền, những người làm báo mác xít đã có hoài bão về nền báo chí của nước
Việt Nam mới. Chính nhà báo Thép Mới kể lại: “Anh Trường Chinh là người lãnh
đạo công tác báo chí, không những đã tích lũy được những kinh nghiệm công tác
báo chí của toàn bộ phong trào mà bản thân anh còn là một nhà văn hóa, một nhà
văn, nhà báo... (hết p.225)
Trong lần làm việc với anh chị em tòa soạn báo Cờ Giải Phóng ra công khai
giữa Hà Nội đã rợp trời cờ đỏ Sao vàng ngày 27/8/1945, ngồi trên bộ xa lông bọc
nhung vàng của nhà tê Erhord nguyên Giám đốc chính trị Phủ Toàn quyền Đô
Dương, anh Trường Chính đã nói một câu đầy hoài bão:
“- 1917: Nam Phong
- 1932 : Phong Hóa - Ngày Nay
- 1945: Cờ Giải Phóng”5[5]
Đó cũng là hoài bão, quyết tâm của Đảng ta cắm những dấu mốc mới trên tiến
trình lịch sử báo chí nước nhà.
Hà Nội, mùa Thu
1998