Câu 2: phân tích cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể trong phép biện chứng duy vật. Trong quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta vậ dụng quan điểm trên như thế nào?
Khái niệm:
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ sự quy định , sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giũa các sự vật , hiện tượng , hay giữa các mặt , các yếu tố của mỗi sự vật , hiện tượng trong thế giời
- Còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật , hiện tượng của thế giới , đồng thời cững dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật , hiện tượng
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lí luận cuả quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể. Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những nghi vấn về sự tồn tại của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và nếu có thì nhân tố nào quy định sự liên hệ giữa chúng đã có những quan điểm khác nhau.
6 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 36661 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết học Mác - Lênin - Phân tích cơ sở lí luận của quan điểm lịch sử cụ thể trong phép biện chứng duy vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 2: phân tích cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể trong phép biện chứng duy vật. Trong quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta vậ dụng quan điểm trên như thế nào?
Khái niệm:
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ sự quy định , sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giũa các sự vật , hiện tượng , hay giữa các mặt , các yếu tố của mỗi sự vật , hiện tượng trong thế giời
- Còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật , hiện tượng của thế giới , đồng thời cững dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật , hiện tượng
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lí luận cuả quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể. Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những nghi vấn về sự tồn tại của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và nếu có thì nhân tố nào quy định sự liên hệ giữa chúng đã có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Giữa chúng không có sự phụ thuộc, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Có chăng thì chỉ là những liên hệ bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên như thần linh, thượng đế, là cảm giác hay là ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới.
Trái lại, chủ nghĩa Duy vật biện chứng cho rằng, thế giới là một chỉnh thể thống nhất, các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành vừa tồn tại độc lập, tách biệt nhau nhưng vùa lại có sự liên hệ, quy định, tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó, Chủ nghĩa Duy vật biện chứng khẳng định, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa nhiều các yếu tố, các mặt hay quá trình khác của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nahu. Bản chất, tính quy luật của sự vât, hiện tượng cũng chỉ được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng và sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác.
Quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến là quan điểm duy vật, nó coi mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không do ai sắp đặt, sáng tạo ra.
Mối liên hệ còn mang tính phổ biến, thể hiện thứ nhất là bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong cả thế giới tự nhiên và xã hội cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ, ví dụ như xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Mặt biểu hiện thứ hai đó là mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào thì cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mối liên hệ còn mang tính đa dạng, mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất phong phú và nhiều vẻ. Mỗi loại mối liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. có thể phân chia theo từng cặp như mối liên hệ bên ngoài và mối liên hệ bên trong; mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu; mối liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp. Sự phân chia trên chỉ mang tính tương đối vì mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một hình thức, một mắt xích, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến; chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy vào phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên sự phân chia này lại rất cần thiết vì qua đó sẽ xác định được vị trí và vai trò trong sự vận động và phát triển của sự vật.
Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học Mác – Lênin đã rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức; khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ mà đã vội vàng đưa ra kết luận về bản chất hay tính quy luật của chúng.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới luôn luôn liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác, do vậy trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự vật trong mối liên hệ hữu cơ giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó, trong mối liên hệ qua lại với các sự vật khác kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp, phải tính đến mọi mối liên hệ, nghĩa là phải đứng trên quan điểm toàn diện, chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Bên cạnh đó, các sự vật, hiện tượng còn có rất nhiều mối liên hệ, các mối liên hệ có vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, khi nghiên cứu sự vận động, phát triển của sự vật cần dựa vào thực tiễn cụ thể để tiến hành phân loại các mối liên hệ để thấy rõ nội dung, vai trò, vị trí của từng mối liên hệ và từ đó có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của cong người, đồng thời tránh được những quan điểm “cào bằng” coi vị trí các mối liên hệ là như nhau. Điều này có nghĩa nguyên tắc toàn diện không đồng nghĩa với việc xem xét dàn trải, liệt kê các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng mà đòi hỏi cần làm sáng tỏ cái cơ bản, cái quan trọng nhất.
Tính chất của các mối quan hệ :
- tính khách quan của các mối liên hệ :
+ Các mối liên hệ của các sự vật , hiên tượng của thế giới là có tính khách quan
+ Theo quan điểm đó, sự quy định , tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật ,hiện tượng la cái vốn có của nó , tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí con người ; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ trong đó hoạt động thực tiễn của mình
-Tính phổ biến của các mối liên hệ
+Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật , hiện tượng hay quá trình nao tồn tại tuyệt đối hay biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác .
+ Đồng thời cững không có sự vật hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống , bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong nó , tức là bất cứ tồn tại nào cững là một hệ thống , hơn nữa là hệ thống mở , tồn tại trong mói liên hệ với hệ thống khác , tương tác và làm biến đỗi lẫn nhau .
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ
Ý nghĩa của phương pháp luận
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và sử lí tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật , hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giũa các bộ phận , giữa các yếu tố , giữa các mặt của chính sự vật hiện tượng , và trong sự tác đông qua lại giữa sự vật hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng khác
- Quan điểm lịch sự _cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và sử lí tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến ngững tính chất đăt thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn.
Trong quá trình đổi mới Đảng ta đã vận dụng quan điểm trên là :
- Nắm vững nguyên lý ý thức có tác động tích cực trở lại đối với vật chất Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới và phải đổi mới trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy làm điều kiện tiền đề đổi mới trong hoạt động thực tiễn.
- Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM làm kim chỉ nam cho hành động.
- Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người.
- Vai trò tích cực của ý thức là ở chỗ ý thức quyết định sự thành bại của con người trong hoạt động thực tiễn sẵn do đó phải:
- Khắc phục thái độ trông chờ ỷ lại vào hoàn cảnh.
- Cần hình thành một ý thức đúng, tổ chức hoạt động theo quy luật triệt để khai thác điều kiện khách quan.
- Trong hoạt động thực tiễn phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân nói chung, nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên nhất là trong điều kiện hiện nay.