Cho đến nay, cổ vật Tây Sơn vẫn là một trong những loại có
số lượng ít nhất trong các loại cổ vật thuộc các triều đại Việt
Nam.
Một trong những hiện vật đẹp nhất và tiêu biểu nhất của thời
đại này là trống đồng Cảnh Thịnh. Chiếc trống đồng này
không chỉ lạ về hoa văn mà đặc biệt hơn là đã được tạo ra ở
thời kỳ mà tưởng như kỹ thuật đúc đã thất truyền.
6 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trống Đồng Cảnh Thịnh Báu vật thời Tây Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trống Đồng Cảnh Thịnh
Báu vật thời Tây Sơn
Cho đến nay, cổ vật Tây Sơn vẫn là một trong những loại có
số lượng ít nhất trong các loại cổ vật thuộc các triều đại Việt
Nam.
Một trong những hiện vật đẹp nhất và tiêu biểu nhất của thời
đại này là trống đồng Cảnh Thịnh. Chiếc trống đồng này
không chỉ lạ về hoa văn mà đặc biệt hơn là đã được tạo ra ở
thời kỳ mà tưởng như kỹ thuật đúc đã thất truyền.
Theo nguồn tư liệu lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
(nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), trống đồng Cảnh Thịnh
được lưu giữ tại Chùa Cả, sau nhân dân xã Ninh Hiệp, Gia
Lâm - Hà Nội tặng lại cho Bảo tàng. Nay trống được lưu giữ,
bảo quản và giới thiệu tại hệ thống trưng bày chính của Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia.
Nếu trống đồng truyền thống có những phình, thắt chia trống
thành nhiều phần thì trống đồng Cảnh Thịnh lại hoàn toàn
khác biệt. Mặt trống cong vồng lên hình chỏm cầu, chính
giữa có hai vòng tròn kép. Thân trống nở nhẹ ở giữa và được
chia làm ba phần, ngăn cách bằng hai đường gân nổi. Thân
trống có 4 quai hình khuyên gắn cách đều trên thân. Xung
quanh trống, từ trên xuống dưới, đúc nổi các băng hoa văn:
nhũ đinh, lá đề, hồi văn chữ T và đề tài tứ linh: long, ly, quy,
phượng. Trống có đường kính: 49cm; Cao: 37,40cm. Trọng
lượng của trống là 32kg.
Một giá trị đặc biệt khác của trống chính là phần tư liệu –
một bài minh dài 272 chữ được khắc trên thân trống. Nội
dung của bài minh nói về bà Nguyễn Thị Lộc, là vợ của Tổng
Thái giám Giao quận công thuộc năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời
Vua Lê Ý Tông (1736) góp công lập chùa Linh Ứng (nay là
Chùa Nành), cùng những lời dẫn đến việc đúc trống để thờ
cúng, tu bổ chùa. Ngoài ra minh văn còn cho biết trống được
đúc vào ngày lành tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh
đời Vua Nguyễn Quang Toản (1800), xã Phù Ninh, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm,
Hà Nội).
Khác trống đồng truyền thống, trống Cảnh Thịnh với kiểu
dáng khác lạ cùng những trang trí nổi các con vật trong bộ tứ
linh, đã trở nên độc đáo, phản ánh sự sáng tạo trong nghệ
thuật trang trí, kỹ thuật đúc trống cũng như nghề đúc đồng cổ
truyền của dân tộc. Trống góp phần làm phong phú thêm bộ
sưu tập trống đồng cổ và là nguồn sử liệu có giá trị về lịch sử
đương thời.
Triều đại Tây Sơn là một triều đại tuy ngắn ngủi chỉ hơn 10
năm (1789-1802), nhưng đã góp một phần không nhỏ vào
nền mỹ thuật nước nhà, đã để lại một dấu ấn riêng. Nền mỹ
thuật này phá bỏ những chuẩn mực cũ, đưa những nguyên
mẫu đời thường vào nghệ thuật nhiều hơn. Liên hệ với trống
đồng Cảnh Thịnh, chúng ta thấy rõ đặc điểm này ở hiện
tượng “trống da hóa” trống đồng, cũng như đưa cả một “sơ
yếu lý lịch”, một câu chuyện cuộc sống lên trống.
Trống đồng Cảnh Thịnh là loại hình hiện vật độc bản có giá
trị nghệ thuật cổ tiêu biểu không chỉ cho giai đoạn lịch sử của
một triều đại mà giá trị tự thân đã là một bảo vật quốc gia nối
mạch cao quý nhiều đời truyền lại.