TÓM TẮT
Bài viết đề cập đến yêu cầu và thực trạng của vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng nhu cầu xã hội của hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và lĩnh vực sư phạm
nói riêng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Trước yêu cầu của thực
tiễn xã hội, kịp thời nắm bắt xu hướng vận động phát triển của xã hội, nhu cầu thực tiễn
của các trường phổ thông, đội ngũ giảng viên, sinh viên các khoa sư phạm tại Trường Đại
học Sài Gòn đã và đang tích cực không ngừng đổi mới, sáng tạo và tiếp thu những cái mới
của thực tiễn để từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo theo xu hướng mới. Thực tiễn đã
chứng minh với những hướng đi đúng đắn và sự chuyển đổi phù hợp, công tác đào tạo của
các ngành sư phạm tại Trường Đại học Sài Gòn đã chuyển theo hướng mới đạt những kết
quả khả quan, đảm bảo cho các ngành đào tạo sư phạm cũng như nhà trường phát triển
bền vững đáp ứng yêu cầu của thực tiễn của xã hội cũng như yêu cầu giáo dục phổ thông
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trường Đại học Sài Gòn với vấn đề đào tạo nhân lực ngành Sư phạm trong xu thế toàn cầu hóa & hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014
37
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN VỚI VẤN ĐỀ
ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH SƯ PHẠM TRONG XU THẾ
TOÀN CẦU HÓA & HỘI NHẬP QUỐC TẾ
PHẠM THỊ THU NGA(*)
TÓM TẮT
Bài viết đề cập đến yêu cầu và thực trạng của vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng nhu cầu xã hội của hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và lĩnh vực sư phạm
nói riêng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Trước yêu cầu của thực
tiễn xã hội, kịp thời nắm bắt xu hướng vận động phát triển của xã hội, nhu cầu thực tiễn
của các trường phổ thông, đội ngũ giảng viên, sinh viên các khoa sư phạm tại Trường Đại
học Sài Gòn đã và đang tích cực không ngừng đổi mới, sáng tạo và tiếp thu những cái mới
của thực tiễn để từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo theo xu hướng mới. Thực tiễn đã
chứng minh với những hướng đi đúng đắn và sự chuyển đổi phù hợp, công tác đào tạo của
các ngành sư phạm tại Trường Đại học Sài Gòn đã chuyển theo hướng mới đạt những kết
quả khả quan, đảm bảo cho các ngành đào tạo sư phạm cũng như nhà trường phát triển
bền vững đáp ứng yêu cầu của thực tiễn của xã hội cũng như yêu cầu giáo dục phổ thông
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: đào tạo nhân lực, ngành sư phạm, kỹ năng thực hành, ứng dụng, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn.
ABSTRACT
The article addresses the requirements and the status of the problem of training of
human resources to meet the social needs of the Vietnamese education system in general
and pedagogical field in particular following the trend of globalization and integration
nowadays. Base on the international requirements of social practices and timely capture
movement trend of social development, practical needs of the high schools, teachers etc.
Staff and students of pedagogy faculty at Saigon University has been actively relentless
innovation, creativity and acquire new methods of practicing to complete and upgrade the
system step by step. Practice has proved the right direction and the appropriate
conversion, training of pedagogical departments at the University of Saigon, it has a new
move towards achieving these positive results, ensure pedagogical training branches of the
university to develop sustainably and meets the requirements of social reality and general
education requirements era of industrialization, modernization & international
integration.
Keywords: human resource training; peedagogical industry; practicinskills and
application; meet practical requirements.
(*)
TS, Trường Đại học Sài Gòn
38
1. Trong xu thế hội nhập quốc tế và
toàn cầu hóa, thách thức lớn đối với giáo
dục Việt Nam là làm sao đào tạo được
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
nhu cầu xã hội. Một trong những tiêu chí
hội nhập là giải quyết tốt vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực, nếu không thì không thể
giải quyết được vấn đề phát triển bền vững.
Với yêu cầu đó, việc đào tạo giáo viên của
các trường sư phạm trong hệ thống giáo
dục, cũng như trường Đại học Sài Gòn gắn
với sự phát triển ngày càng cao của xã hội
là yêu cầu cấp thiết.
Trong nhiều năm qua hệ thống giáo
dục Việt Nam đã và đang nâng cao năng
lực hội nhập, sự nghiệp giáo dục nói chung
và giáo dục sư phạm nói riêng đã và đang
góp phần quan trọng trong việc giáo dục
thế hệ trẻ, đào tạo nguồn nhân lực với các
trình độ, các loại ngành nghề khác nhau
nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, qua đó cũng
đã đạt được những thành tựu và nhiều tiến
bộ nhất định. Đặc biệt trong việc giao lưu
với thế giới bên ngoài, nguồn nhân lực đó
đã đem lại những thành công to lớn trong
công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam
hội nhập với thế giới – nhân loại
Việc chú trọng đầu tư mở rộng và nâng
cao chất lượng đào tạo của các trường sư
phạm trong những năm gần đây đã và đang
phần nào đáp ứng được sự đòi hỏi của thực
tiễn, nhưng nếu nhìn lại, như đánh giá của
chính ngành giáo dục, cũng như dư luận xã
hội những năm vừa qua thì việc đào tạo
còn nhiều khiếm khuyết: số lượng và chất
lượng đội ngũ giảng viên; nội dung chương
trình và phương pháp đào tạo theo hướng
phát huy tính chủ động của sinh viên;
chuyển đổi việc đào tạo theo học chế tín
chỉ; sự gắn kết việc đào tạo giáo viên ở các
trường sư phạm với thực tiễn các trường
phổ thông
Thực trạng đó đã và đang đặt ra nhiều
vấn đề bất cập:
- Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn đáp ứng yêu cầu phát triển xã
hội.
- Bên cạnh kiến thức, trình độ chuyên
môn thì yêu cầu về kỹ năng nghề nghiệp
cũng không kém phần quan trọng.
- Đặc biệt việc trang bị các kỹ năng
mềm (làm việc theo nhóm, khả năng liên
kết nhóm, khả năng sử lý tình huống, khả
năng giao tiếp) là yêu cầu lớn.
Vì vậy, việc đào tạo bất cứ ngành
nghề, lĩnh vực nào thì việc đầu tiên đòi hỏi
các cơ sở đào tạo và những nhà khoa học
xây dựng và thiết kế chương trình đào tạo
phải xác định được rõ ràng và chính xác
mục tiêu đào tạo và định hướng phát triển
sau khi đào tạo đối với người học nhằm
đáp ứng nhu cầu thực tiễn xã hội.
Trong quá trình tiến hành đào tạo mặc
dù khung chương trình của các cơ sở đào
tạo được thiết kế theo hướng gắn giữa lý
thuyết với nhu cầu thực tiễn giáo dục phổ
thông, nhưng quỹ thời gian dành cho hoạt
động thực hành của cả giảng viên và sinh
viên chưa thật sự hợp lý. Từ đó đưa đến
việc đào tạo ra người giáo viên còn khiếm
khuyết những kỹ năng nghiệp vụ sư phạm
cơ bản.
Tính chủ động trong hoạt động nhận
thức của sinh viên chưa thực sự được phát
huy. Phương thức chủ yếu vẫn là nghe và
ghi nhớ. Do đó, những kiến thức cơ bản
không được lĩnh hội vững chắc, những kĩ
năng học tập của sinh viên – những giáo
viên trong tương lai chưa được hoàn thiện.
Tuy trong quá trình đào tạo, sinh viên
đã được cung cấp những kiến thức về khoa
học cơ bản và được rèn luyện kỹ năng
nghiệp vụ sư phạm, nhưng khi đi vào tập
giảng, tự tổ chức các hoạt động học tập thì
39
phương pháp và cách thức tiếp cận kiến
thức còn nghèo nàn, đơn điệu, khả năng tự
tìm tòi khám phá các tri thức khoa học còn
yếu & thụ động, khả năng tư duy độc lập,
phản biện chưa được chú trọng
Khi ra trường tham gia vào thực tế xã
hội, đội ngũ nhân lực của ngành “những
người kỹ sư tâm hồn” đã bộc lộ những hạn
chế: thiếu các “kỹ năng mềm”, khả năng
thích ứng, khả năng hội nhập chậm, thậm
chí sự cập nhật kiến thức mới, phương
pháp giảng dạy mới cũng rất hạn chế. Từ
đó dẫn đến tình trạng đội ngũ nhân lực của
ngành: “vừa thừa lại vừa thiếu” (ở một số
nơi & địa phương, thừa về mặt số lượng,
nhưng lại thiếu về chất lượng).
2. Để khắc phục thực trạng đó, thiết
nghĩ cần phải nhận thức đầy đủ tầm quan
trọng trong công tác đào tạo của ngành sư
phạm và xác định rõ vai trò nòng cốt của
hệ thống trường đào tạo giáo viên - trung
tâm đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo
và nghiên cứu khoa học, cũng như nghiệp
vụ sư phạm.
Hơn bao giờ hết, nhiệm vụ và yêu cầu
đổi mới sự nghiệp “ trồng người” được đặt
ra cấp bách, bởi chỉ có như vậy mới tiến
hành đổi mới được toàn diện và cơ bản
hoạt động giáo dục nói chung và đào tạo sư
phạm nói riêng từ mầm non đến đại học,
sau đại họcđúng như Đại hội XI của
Đảng đã xác định: phải quyết tâm đổi mới
và đổi mới “từ gốc”, đổi mới ở tầm hệ
thống một cách căn bản, vững chắc nhằm
phục hưng nền giáo dục, tham gia hội nhập
quốc tế toàn diện. Hội nghị lần thứ 6 Ban
chấp hành TW Đảng khóa XI cũng nhấn
mạnh: “phải đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc
nhận thức và tư duy về giáo dục và đào tạo
về nội dung, phương pháp giáo dục
phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo Mở rộng và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế về giáo
dục”. Đặc biệt, Nghị quyết về Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, được hội nghị
lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI ban hành (11/2013) – Nghị
quyết có giá trị định hướng tư tưởng, hành
động rất sâu sắc, thiết thực đối với quá
trình đổi mới giáo dục đại học nói chung
cũng như ngành sư phạm nói riêng. Cũng
đã có nhiều ý kiến của các nhà khoa học
tâm huyết đặt ra những yêu cầu của việc
đổi mới và xem nó như một cuộc cách
mạng với việc đào tạo ngành nghề trong xã
hội hiện nay; thay đổi nội dung, phương
pháp, phương tiện đào tạo, máy tính hóa
hoạt động nhà trường; coi trong việc phổ
cập tin học, internet; sử dụng phổ biến
ngoại ngữ trong hệ thống nhà trường với
phương châm gắn kết chặt chẽ việc đào tạo
của nhà trường với môi trường thực tiễn
của xã hội, từ đó hình thành những phẩm
chất, năng lực thích ứng cho người học.
Với tinh thần đó, để tiến hành đổi mới:
- Trước hết: cần phải thẳng thắn nhìn
nhận một cách khoa học những ưu điểm,
hạn chế và sự lỗi thời của ngành sư phạm
nói riêng và hệ thống giáo dục nói chung
để có những thông tin chính xác. Trên cơ
sở đó đánh giá toàn bộ hoạt động thực tế
của ngành sư phạm, xây dựng đề án tiến
hành đổi mới.
- Thứ hai: Nghiên cứu, tiếp thu kinh
nghiệm của khoa học sư phạm của các
nước tiên tiến trên thế giới về phương thức
đào tạo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của
Việt Nam. Điều này có ý nghĩa tiên quyết,
mở đường để giáo dục nói chung và ngành
sư phạm nói riêng hội nhập với thế giới
- Cùng với việc làm đó, phải nghiên
40
cứu, tiến hành cấu trúc lại căn bản hệ thống
chương trình, sách giáo khoa, giáo trình
đào tạo của các cấp, các hệ đào tạo nói
chung và đào tạo sư phạm nói riêng với
tinh thần cập nhật mới (cả nội dung và
phương pháp)
- Thứ tư: chú trọng đổi mới thực sự
phương thức đào tạo, phương pháp dạy và
học – đây là một trong những mặt hạn chế
nổi cộm nhất.
Đúng như bà Nguyễn Thị Bình
(nguyên phó Chủ tịch nước) đã chỉ rõ:
cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên là giải pháp cốt lõi để đổi mới căn bản
nền giáo dục, và phải thay đổi phương
pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ
thông theo hướng chuyển từ đào tạo một
lần sang đào tạo căn bản với đào tạo bổ
sung, thường xuyên theo chu kỳ, mà trọng
tâm là phát triển liên tục khả năng đáp ứng
của giáo viên trước yêu cầu chuyên nghiệp
hóa. Trong chương trình đào tạo giáo viên
phải chú ý ưu tiên thời lượng và những
điều kiện đảm bảo cho các hoạt động kiến
tập, thực tập sư phạm thường xuyên tại các
trường phổ thông, tạo sự gắn kết thường
xuyên giữa “nhà đào tạo và nhà sử dụng
nhân lực”.
- Các trường sư phạm cần có kế hoạch
xây dựng và nâng cao hơn nữa chất lượng
đội ngũ giảng viên. Thường xuyên tạo điều
kiện cho đội ngũ học hỏi, trao đổi, chia sẻ
kinh nghiệm giữa các trường, cơ sở đào tạo
sư phạm trong và ngoài nước.
- Đồng thời: Các trường sư phạm
thường xuyên quan tâm nắm bắt yêu cầu
thực tiễn của các trường phổ thông nhằm
giúp sản phẩm đào tạo của mình đạt chuẩn,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Ngược lại hệ
thống các trường phổ thông cũng cần quan
tâm và xác định trách nhiệm của mình
trong việc phối hợp với các trường sư
phạm (trong việc rèn nghiệp vụ sư phạm
cho sinh viên) để cùng tạo ra đội ngũ giáo
viên có chất lượng, đáp ứng nhu cầu thực
tiễn.
3. Để đáp ứng được sự đòi hỏi của thực
tiễn xã hội, thực hiện chủ trương của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc áp dụng mô
hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ của Quy
chế 43 thay thế cho Quy chế 25 (đào tạo
theo hình thức niên chế), trường Đại học
Sài Gòn cũng như hầu hết các trường Đại
học đã tiến hành xây dựng mới chương
trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Các
ngành đào tạo giáo viên của trường cũng
đã tiến hành xây dựng lại toàn bộ chương
trình đạo tạo Đại học, Cao đẳng theo
phương thức đào tạo mới không chỉ đáp
ứng nhu cầu của người học mà trên hết đó
là đáp ứng nhu cầu về chất lượng cao cho
đội ngũ giáo viên.
Nhìn chung mô hình đào tạo này chú
trọng mục đích đào tạo giáo viên theo
hướng đáp ứng thực tiễn đổi mới giáo dục
phổ thông. Tuy nhiên, đào tạo theo hệ
thống tín chỉ tín chỉ lại hoàn toàn khác hẳn
so với trước đây, nó là hình thức đào tạo
tiến bộ hiện nay, do vậy mà hầu hết tất cả
các môn học/ học phần đều được thiết kế
dưới dạng các module kiến thức được tích
hợp theo từng phần và khối kiến thức, vì
thế mà thời lượng người học được đào tạo
trên giảng đường không nhiều (chỉ dạo đầu
trong khoảng từ 30 đến 45 tiết học, số ít có
thời lượng 60 đến 75 tiết học là tối đa),
nhưng ngược lại bắt buộc họ phải đầu tư
tăng cường thời gian tự học, tự nghiên cứu
gấp ba lần thời gian trên lớp để đáp ứng
được yêu cầu của môn học/ học phần thông
qua những kỹ năng và phương pháp học
tập được trang bị ở bậc học đại học, yêu
cầu đặt ra đòi hỏi việc học tập của sinh
viên gắn liền với quá trình tự đào tạo, tự
41
học tập, tự nghiên cứu nhiều hơn là giờ học
trên lớp. Điều này buộc người học phải chủ
động tư duy tiếp thu tri thức và đồng thời
cũng phải tự chủ động trang bị thêm cho
bản thân những kỹ năng nghiệp vụ để khi
ra trường có thể nhanh chóng hội nhập với
thực tiễn của các trường phổ thông.
Từ rất lâu, ở các nước có nền giáo dục
tiên tiến đã tiến hành phương pháp giáo
dục tích cực, phương pháp tương tác, làm
việc nhóm, gắn khoa học với thực tiễn cuộc
sống nhằm tạo cho đội ngũ nhân lực những
phẩm chất năng động, sáng tạo, có khả
năng giao tiếp, thích ứng xã hội cao. Trong
khi đó ở Việt Nam chúng ta thì vẫn còn
phổ biến tính bao cấp, giáo viên ôm đồm,
độc thoại, tổ chức học tập, thảo luận nhóm
theo kiểu đám đông, nên nhìn chung việc
đổi mới phương pháp dạy – học mới chỉ
đạt về mặt hình thức mà chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu về mặt nội dung.
Vậy nên, chương trình đào tạo giáo
viên theo hệ thống tín chỉ đã và đang được
áp dụng tại Trường Đại học Sài Gòn cũng
như các trường sư phạm sẽ thực sự đưa đến
sự thay đổi toàn diện, hệ thống các môn
học được thiết kết tinh gọn với sự lồng
ghép tích hợp kiến thức lý thuyết với kỹ
năng thực hành ứng dụng cao nhằm gắn
liền giữa đào tạo lý thuyết với thực hành.
Bên cạnh đó, việc tổ chức các hoạt động
thực tế, thực hành, kiến tập và rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngày
càng được chú trọng tổ chức tốt hơn về
chất lượng và tăng cường số lượng về thời
gian cũng như các hoạt động.
Tính thực hành ứng dụng được tích lũy
trong quá trình đào tạo của các học phần lý
thuyết được đặt ra. Đồng thời chính sự
mềm dẻo linh hoạt của đào tạo tín chỉ trong
quá trình giảng dạy đòi hỏi giảng viên cần
tăng cường nâng cao tính ứng dụng và kỹ
năng thực hành cho sinh viên không thể lý
thuyết hóa toàn bộ nội dung dẫn đến sự
khô cứng kiến thức và người học không có
cơ hội tiếp cận với thực tiễn biến đổi
thường xuyên các kỹ năng mới trong hệ
thống giáo dục phổ thông. Có thể nói tỷ lệ
giữa lý thuyết và tính thực hành ứng dụng
trong quá trình đào tạo của chương trình
Đại học các ngành sư phạm theo học chế
tín chỉ ở Trường Đại học Sài Gòn hiện nay
là hợp lý vì thực tế yêu cầu của công tác
giảng dạy trong quá trình hội nhập đòi hỏi
sinh viên phải vận dụng kiến thức và có kỹ
năng nghiệp vụ sư phạm, năng động nhạy
bén hơn, từ đó đưa đến chuyển biến căn
bản chất lượng đào tạo.
Tuy còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện,
nhưng do kịp thời nắm bắt xu hướng vận
động phát triển của xã hội, nhu cầu thực
tiễn của các trường phổ thông, đội ngũ
giảng, viên sinh viên các khoa sư phạm tại
trường đã và đang tích cực không ngừng
đổi mới, sáng tạo và tiếp thu những cái mới
của thực tiễn để từng bước hoàn thiện hệ
thống đào tạo theo xu hướng mới. Thực
tiễn trong quá trình đào tạo, sinh viên luôn
được tạo những cơ hội để vận dụng và thực
hành những kiến thức lý thuyết đã học,
cùng với những tri thức khoa học chuyên
sâu được chuyển hóa bằng thực tế quan sát,
tiếp cận với đời sống xã hội thông qua
hàng loạt các chương trình, hoạt động học
tập ngoại khóa thường xuyên, kết hợp với
nhiều hình thức tổ chức phong phú đã được
các khoa chú trọng. Quá trình tổ chức hoạt
động đào tạo bước đầu đã có những hiệu
quả thiết thực từ việc gắn đào tạo lý thuyết
với thực hành ứng dụng tri thức cùng với
kỹ năng nghề nghiệp, điều này càng làm
cho chất lượng đào tạo cùng với uy tín của
Trường Đại học Sài Gòn không ngừng tăng
lên trước những đòi hỏi của xã hội về đào
42
tạo nguồn nhân lực.
Xác định việc thực tập tốt nghiệp cuối
khóa của sinh viên tại các trường phổ
thông là một trong những cơ hội, đồng thời
là điều kiện để có thể kiểm tra đánh giá quá
trình sinh viên được đào tạo về tri thức
khoa học và kỹ năng nghiệp vụ, ứng dụng
tay nghề vào thực tiễn trước khi ra trường
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của xã hội là
một trong những vấn đề quan trọng. Cơ sở
đào tạo đã chủ động liên hệ, phối hợp với
hệ thống các trường phổ thông, để bố trí
toàn bộ sinh viên các năm cuối bậc đại học
và cao đẳng đến thực tập. Điều này, đảm
bảo một cách hiệu quả quá trình thực tập
của sinh viên, thông qua đó sinh viên có
thể tự kiểm tra và xác định lại năng lực,
trình độ và kỹ năng của bản thân nhằm bổ
sung thêm những mặt còn hạn chế.
Kết quả đánh giá của các trường phổ
thông sau đợt thực tập là một trong những
yếu tố tạo sự kết nối giữa thực tiễn đối với
cơ sở đào tạo, nó cũng là cơ sở để đánh giá
lại quá trình đào tạo, cùng với việc bổ sung
thêm các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp từ thực tiễn đòi hỏi để từ đó
có những điều chỉnh nội dung, kiến thức,
chương trình phù hợp đáp ứng ngày càng
tốt hơn đối với hệ thống giáo dục phổ
thông và xã hội.
Sự gắn kết giữa trường (nhà đào tạo)
với thực tiễn các trường phổ thông (nhà
tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực) đã
tạo ra tính tích cực hai chiều, làm cho mối
quan hệ ngày càng gắn bó chặt chẽ giữa
cung và cầu, đặc biệt cơ sở đào tạo – cụ thể
là các Khoa, Bộ môn sẽ xác định ngày
càng rõ hơn những yêu cầu về chất lượng
nguồn nhân lực của ngành sư phạm để có
những biện pháp điều chỉnh tích cực trong
quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Tuy nhiên, trong quá trình đào tạo vẫn
còn ít nhiều những khó khăn và vướng mắc
trong cơ chế quản lý, các nguồn lực và con
người đảm bảo cho cả hệ thống thực hiện
đồng bộ.
Dù vậy, thực tế đã chứng minh với
những hướng đi đúng đắn và sự chuyển đổi
phù hợp, công tác đào tạo nói chung và các
ngành sư phạm nói riêng tại trường Đại
học Sài Gòn đã đạt những kết quả nhất
định. Điều này là vô cùng quan trọng, đảm
bảo cho các ngành đào tạo sư phạm cũng
như nhà trường phát triển bền vững đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn của xã hội cũng
như yêu cầu giáo dục phổ thông thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo Dục và Đào tạo (2007). Tài liệu Hội thảo: Tiếp tục nâng cao năng lực đổi
mới phương pháp dạy học cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng sư phạm.
2. “Cần làm gì để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam?”, Báo Giáo dục &
Thời đại số 200 (6/10/2012).
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia.
43
4. Hồ Bá Thâm – Nguyễn Thị Hồng Diễm (2011), Toàn cầu hóa hội nhập và phát triển
bền vững từ góc nhìn triết học đương đại, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật.
5. “Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW Đảng khóa XI”, Báo Nhân dân số
20854 (3/16/2012).
6. Trường Đại học Sài Gòn (2010). Kỉ yếu Hội thảo Khoa học toàn quốc: Đổi mới
phương pháp giảng dạy đại học theo hệ thống tín chỉ.
* Ngày nhận bài: 20/10/2014. Biên tập xong: 05/11/2014. Duyệt đăng: 07/11/2014