Tóm tắt: Để định hướng và xác định con đường đúng trong quá trình phát
triển của Trường Đại học Xây dựng Miền Trung với hội nhập giáo dục, khoa
học và công nghệ trong khu vực ASEAN và thế giới, bài báo này nhằm giới
thiệu vị trí của các trường Đại học Việt Nam trên thế giới thông qua những
tiêu chí đánh giá xếp hạng của các tổ chức uy tín, đặc biệt là mô hình đánh
giá của Webometrics. Từ đó tác giả muốn tập trung nhìn nhận thực trạng,
tồn tại về hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của trường Đại học
Xây dựng Miền Trung, cuối cùng là những giải pháp, đề xuất mà tác giả
muốn gửi đến tập thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên và Ban giám hiệu
Nhà trường tham khảo để có một cách lựa chọn đúng đắn trong vai trò của
mình đối với Nhà trường theo xu thế hội nhập hiện tại và tương lai.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trường Đại học Xây dựng miền Trung: Chuẩn bị hành trang bước vào hội nhập giáo dục, khoa học và công nghệ trong khu vực và thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 1
TRƢỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG MIỀN TRUNG:
CHUẨN BỊ HÀNH TRANG BƢỚC VÀO HỘI NHẬP GIÁO DỤC,
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
TS. Võ Thanh Huy
Phó Trưởng phòng KH&HTQT, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Để định hướng và xác định con đường đúng trong quá trình phát
triển của Trường Đại học Xây dựng Miền Trung với hội nhập giáo dục, khoa
học và công nghệ trong khu vực ASEAN và thế giới, bài báo này nhằm giới
thiệu vị trí của các trường Đại học Việt Nam trên thế giới thông qua những
tiêu chí đánh giá xếp hạng của các tổ chức uy tín, đặc biệt là mô hình đánh
giá của Webometrics. Từ đó tác giả muốn tập trung nhìn nhận thực trạng,
tồn tại về hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của trường Đại học
Xây dựng Miền Trung, cuối cùng là những giải pháp, đề xuất mà tác giả
muốn gửi đến tập thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên và Ban giám hiệu
Nhà trường tham khảo để có một cách lựa chọn đúng đắn trong vai trò của
mình đối với Nhà trường theo xu thế hội nhập hiện tại và tương lai.
Từ khoá: Hội nhập quốc tế, xếp hạng Đại học, nghiên cứu khoa học,
Webometrics
1. Vị trí KH&CN Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới
Trong năm 2015 đánh dấu sự tiến
bộ của thành tựu Khoa học và Công
nghệ (KH&CN) Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới. Theo Tổ chức Sở
hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) kết hợp với
Đại học (ĐH) Cornell (Hoa Kỳ) và Học
viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) vừa
đưa ra chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu
GII (Global Innovation Index) năm
2015, Việt Nam tăng 19 bậc, xếp thứ 52
trên 141 quốc gia có nền kinh tế được
xếp hạng (trước đó, năm 2014 là 71/141
và năm 2013 là 76/141). Tại khu vực
Đông Nam Á, Việt Nam vươn lên vị trí
thứ 3 về chỉ số đổi mới sáng tạo, vượt
qua Thái Lan (đứng thứ 55/141), chỉ
thua Singapore (7/141) và Malaysia
(32/141). Trong sự tiến bộ đó có đóng
góp của nguồn nhân lực và nghiên cứu,
sản phẩm chất xám và công nghệ và đặc
biệt là thành tựu công bố khoa học quốc
tế. Trong 5 năm qua (2011-2015), công
bố khoa học Việt Nam tăng xấp xỉ 2,2
lần giai đoạn trước đó (2006-2010), cụ
thể tổng công bố khoa học năm 2015
hơn 11738 bài (Bảng 1). Với thành tích
này, trong giai đoạn 2011-2015, Việt
Nam vươn lên đứng thứ 59 trên thế giới
về công bố quốc tế (trước đó, 2006-2010
là đứng thứ 66, 2001-2005 là vị trí 73).
Ở Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 4
về công bố khoa học trong năm 2015,
đứng sau Singapore (32), Malaysia (38)
và Thái Lan (43) [1]. Những dấu hiệu
trên cho thấy Nhà nước và Chính Phủ
Việt Nam có sự quan tâm đặc biệt đến
hoạt động KH&CN rõ rệt, các trường
ĐH/Viện ở Việt Nam có sự nhìn nhận và
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 2
đánh giá được tầm quan trọng trong
công bố khoa học. Bằng chứng là đầu tư
vào KH&CN của Việt Nam hằng năm
gần 2% (tương đương 0,5% GDP)so với
tổng chi ngân sách quốc gia, con số này
bằng đầu tư chung của các nước trên thế
giới, chỉ khác là GDP của mỗi quốc gia
có giá trị khác nhau.
Bảng 1: Số lượng công bố khoa học các quốc gia ASEAN từ 2011-2015.
Nguồn: Web of Science.
Quốc gia 2011 2012 2013 2014 2015
Việt Nam 1570 1942 2427 2699 2017
Thái lan 6977 7690 7728 8185 7063
Malaysia 8843 9574 10504 12193 10934
Singapore 11520 12977 13748 14681 13335
Indonesia 1513 1709 2041 2466 2088
Philippines 1229 1295 1434 1547 1346
Trước bức tranh chuyển màu có vẻ
khả quan về lĩnh vực KH&CN của Việt
Nam, nhưng nhìn chungthành quả đóng
góp mang lại và thực tế vẫn là màu xám
so với các nước trong Khu vực và thế
giới. "Thời đại ngày nay cạnh tranh về
khoa học công nghệ. Nước nào có trình
độ khoa học công nghệ cao hơn thì có
sức cạnh tranh cao hơn và sẽ chiến
thắng trong cuộc đua về kinh tế, xã hội,
an ninh, quốc phòng" (trích câu nói của
TT. Nguyễn Tấn Dũng). Như vậy, trình
độ KH&CN của Việt Nam trong khu
vực không thua kém nhiều so với các
nước, tri thức người Việt Nam đạt được
nhiều thành tựu và vang danh khắp nơi,
thế nhưng kinh tế - xã hội Việt Nam
vẫn tăng trưởng chậm, ứng dụng tiến bộ
KHCN vẫn còn lạc hậu. Nhìn sâu vào
bức tranh đó, trong lĩnh vực công bố
khoa học, hơn 40% số lượng công bố
của Việt Nam lại thuộc về các lĩnh vực
cơ bản Toán, Lí, Hóa. Trong khi đó,
những công bố khác phần lớn tác giả
người Việt Nam đứngchungcác tác giả
người nước ngoài của các Viện, trường
Đại học trên thế giới. Các công bố trong
lĩnh vực khoa học ứng dụng và kỹ thuật,
vốn dĩ liên quan đến nhiều thành tựu
phát triển của đất nước, không những
chiếm tỷ trọng rất ít mà hệ số ảnh
hưởng (IF, impact factor) và tỷ lệ tham
chiếu (citations) chỉ đạt mức trung
bình.Hiện nay Chính phủ Việt Nam chỉ
có mỗi Quỹ NAFOSTED là hoạt động
hiệu quả, nhưng chỉ tập trung các ngành
khoa học cơ bản, thiếu các nguồn quĩ
tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng và
khoa học kỹ thuật.
Năm 2015, Việt Nam có 122
trường Đại học trong số hơn 412 cơ sở
Đại học trong toàn quốc được hệ thống
xếp hạng Webometrics xếp hạng. Trong
số đó, ĐH QGHN đứng thứ 1 Việt Nam
vàđứng 1133 thế giới, tiếp theo là ĐH
Bách khoa HN đứng thứ 2 và 2181 thế
giới. Với đánh giá và xếp hạng như vậy,
Việt Nam chưa có trường nào lọt vào
TOP 1000 trong số hơn 25000 trường
ĐH tham gia xếp hạng trên thế giới. Tại
Châu Á, Việt Nam chí có 1 trường
(ĐHQGHN) lọt vào TOP 200 trong số
6000 trường hiện có[6], [7], [8]. Xếp
hạng các trường ĐH tại Việt Nam vẫn
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 3
còn là vấn đề xa lạ, các trường Top của
Việt Nam trên sân chơi và xếp hạng của
thế giới còn khoảng cách rất lớn.Thế
nhưng, trong số các trường ĐH Việt
Nam, có sự phân hóa rõ rệt. Ngoài các
trường ĐH truyền thống (ĐHQGHN,
ĐHQGTP HCM, ĐHBKHN, Đại học
Y) và một số trường ĐH mới thành
lập (ĐH Hoa Sen, Duy Tân, Quảng
Bình, Tôn Đức Thắng) có cách tiếp
cận quản trị đại học tốt nên có thứ hạng
được đánh giá trong hệ thống
Webometrics, số còn lại chiếm rất lớn
vẫn còn đang mơ hồ và bỡ ngỡ trước sân
chơi hội nhập Giáo dục, KHCN trong
khu vực và trên thế giới, trong đó có
Trường ĐH Xây dựng Miền Trung.
Trong khuôn khổ của bài viết này,
tác giả muốn cung cấp một bức tranh
toàn cảnh về hội nhập Giáo dục và
KHCN, mà chủ yếu là công bố khoa học
quốc tế, qua đó cho thấy vị trí của
Trường ĐH Xây dựng Miền Trung so
với các trường ĐH cả nước nói riêng và
trên thế giới nói chung. Từ đó tìm hiểu
và tiếp cận mô hình các hệ thống đánh
giá và xếp hạng ĐH có uy tín trên thế
giới để có những giải pháp và định
hướng trong chiến lược phát triển chung
của Nhà trường trong hội nhập GD và
KHCN trong thời đại của cộng đồng
ASEAN và hội nhấp thế giới.
2. Mô hình đánh giá Trƣờng Đại học
và tiêu chí xếp hạng của Webometrics
Các trường ĐH ở Việt Nam bước
vào sân chơi khu vực. Trong 5 năm
gần đây, thứ hạng các trường ĐH Việt
Nam có cải thiện trên hệ thống xếp
hạng ĐH quốc tế, nhưng con số còn rất
ít và thua xa các nước trong khu vực.Bộ
GD&ĐT Việt Nam đang nổ lực, cải
thiện để hướng các trường ĐH trong
nước hội nhập Giáo dục và KH-CN.
Mới đây, năm 2015 Bộ KH&CN có
đánh giá và công bố 20 tổ chức có năng
lực công bố KH tốt nhất ở Việt Nam.
Theo sự đánh giá này, số cơ sở nghiên
cứu và đào tạo có trên 100 bài báo xuất
bản trong năm trước đó chiếm tỉ lệ rất
ít.Trong những năm tới, một số trường
ĐH được Chính phủ quyết định thí
điểm tự chủ dần, tiế tới tất cả các
trường ĐH công lập trên cả nước sẽ
phải tự chủ hoàn toàn vào năm
2018.Đây là một xu thế tất yếu, đã quy
định và các trường ĐH sẽ phải thực
hiện. Do vậy, các trường đang và sẽ
chuẩn bị hành trang để bước vào cuộc
đua, cạnh tranh để nâng cao chất lượng
đào tạo, dịch vụ và công bố khoa học.
Hơn nữa, kể từ ngày 25/10/2015, Nghị
định 73 về Quy định tiêu chuẩn phân
tầng, xếp hạng ĐH đã có hiệu lực. Theo
đó, hệ thống ĐH được chia thành 3
tầng: định hướng nghiên cứu, ứng dụng,
thực hành. Các cơ sở giáo dục ĐH trong
mỗi tầng được sắp xếp vào 3 hạng của
khung xếp hạng theo thứ tự từ cao
xuống thấp: Hạng 1, hạng 2, hạng 3.
Hạng 1 bao gồm 30% các cơ sở giáo
dục ĐH có điểm cao nhất; hạng 3 bao
gồm 30% các cơ sở giáo dục ĐH có
điểm thấp nhất và hạng 2 bao gồm 40%
các cơ sở giáo dục ĐH không thuộc
hạng 1 và 3. Phân tầng cơ sở giáo dục
ĐH được thực hiện theo chu kỳ 10 năm
và xếp hạng cơ sở giáo dục được thực
hiện theo chu kỳ 2 năm. Đây là bước đi
khởi đầu cho các trường ĐH Việt Nam
xác định được thứ hạng và phân tầng
của mình trên con đường hội nhập GD
và KH-CN trong khu vực và thế giới.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 4
Môhình và tiêu chí đánh giá của
Webometrics. Hiện nay, có 4 hệ thống
xếp hạng thế giới được các trường ĐH
Việt Nam biết và quan tâm nhiều: (1)
bảng xếp hạng đại học thế giới QS
(Quacquarelli Symonds), Anh quốc; (2)
xếp hạng năng lực công bố quốc tế của
Scimago Lab; (3) xếp hạng cả về mức
độ số hóa các thư tịch khoa học trên
website năng lực công bố quốc tế của
Webometrics Lab; (4) và xếp hạng về
chất lượng học thuật URAP (University
Ranking by Acdemic Performance) của
Thổ Nhĩ Kỳ. Trong đó, xếp hạng theo độ
đo Webometrics đã thể hiện được nhiều
ưu điểm, vượt trội hơn các phương pháp
khác và ngày càng được thừa nhận rộng
rãi[2], [3], [4].
Về cơ bản, cơ sở của xếp hạng
Webometrics dựa trên 4 chỉ số đo: S – V
– R – Sc. Trong đó, S (Size, kích cỡ của
website) là chỉ số thể hiện số lượng trang
Web xuất hiện dưới cùng 1 tên miền trên
4 công cụ tìm kiếm: Google, Yahoo,
Live search và Exalead; V (Visibility,
khả năng nhận diện) là chỉ số thể hiện
các đường dẫn từ bên ngoài liên kết đến
các kết nối bên trong trên một tên miền
được xác định dựa trên 3 công cụ tìm
kiếm: Yahoo, Live search và Exalead; R
(Rich file, độ phong phú các tập tin) là
chỉ số thể hiện số lượng các loại file
dạng .doc, .pdf, .ppt, .psđược xác định
trên công cụ tìm kiếm Google; Sc
(Scholar, công bố nghiên cứu trên mạng)
là chỉ số các bài báo khoa học, cùng các
trích dẫn trên một tên miền trường qua
công cụ Google Scholar. Tỷ trong đánh
giá của các chỉ số đo cũng khác nhau,
nếu như trước đây phân bổ đánh giá của
Webometrics là: S (25%), V (50%), R
(12,5%) và Sc (12,5%) thì kể từ
31/7/2015 tỷ trong đánh giá đã thay đổi
dựa trên yêu cầu thực tế, với S (10%), V
(50%), R (10%) và Sc (30%). Theo thay
đổi này, mức độ đánh giá độ số hóa của
Website Nhà trường và công bố khoa
học được đánh giá rất cao. Độ số hóa là
1 tiêu chí quan trong chiếm 50% điểm
đánh giá của hệ thống Webometrics, xu
hướng đánh giá công bố khoa học là yếu
tố thứ 2 trong hệ thống này, điểm số
thay đổi sau khi đổi mới để thích nghi
với xu hướng phát triển hiện tại từ
12,5% lến đến 30%.
3. Thách thức và giải pháp áp dụng
tại Trƣờng ĐHXD Miền Trung
3.1. Thực trạng hiện tại
Kể từ khi thành lập Trường Đại học
Xây dựng Miền Trung theo Quyết định số
1276/QĐ-TTg ngày 28 tháng 7 năm 2011
của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở nâng
cấp Trường Cao đẳng Xây dựng số 3, tiền
thân là Trường Trung học Xây dựng số 6,
được thành lập vào ngày 14/02/1976, Nhà
trường đã xác định trách nhiệm to lớn
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực đội
ngũ giảng viên, nghiên cứu viên và cán bộ
quản lý Nhà trường hướng mục tiêu xây
dựng hình ảnh Nhà trường và nâng số
lượng công bố khoa học, bước đầu hội
nhập giáo dục và khoa học công nghệ
trong khu vực và thế giới. Trong trách
nhiệm đó, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
công nghệ là một nhiệm vụ trọng tâm
trong quá trình phát triển toàn diện của
Nhà trường. Thế nhưng, trong 5 năm từ
2011-2015, thành tựu nghiên cứu khoa
học vẫn dừng lại ở các nghiên cứu khoa
học cấp trường dưới dạng biên soạn giáo
trình, tài liệu giảng dạy, tài liệu tham
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 5
khảo(Hình 1), các đề tài, dự án khoa
học cấp Bộ, cấp tỉnh vẫn còn ít và hiệu
quả ứng dụng vào giảng dạy, chuyển giao
công nghệ chưa cao (Hình 2), các công bố
khoa học trong nước và quốc tế đứng tên
Trường ĐH Xây dựng Miền Trung còn ít,
chủ yếu là giảng viên của Trường đạt
được trong quá trình đào tạo sau đại học
và liên kết cộng tác với các nhà khoa học
Trường/Viện khác trong nước và quốc tế
(Hình 3).
Hình 1: Số lượng Giáo trình, tài liệu
giảng day và bài thông báo KH&CN
giai đoạn 2011-2015. Nguồn: Phòng
KH&HTQT (ĐHXD Miền Trung)
Hình 2: Đề tài NCKH cấp trường, cấp
bộ giai đoạn 2011-2015.
Nguồn: Phòng KH&HTQT (ĐHXD
Miền Trung)
Hình 3: Xuất bản và công bố quốc tế của Trường Đại học Xây dựng Miền Trung, tính
đến thời điểm hiện tại. Nguồn: Phòng KH&HTQT (ĐHXD Miền Trung)
3.2. Thách thức& giải pháp
Để thực hiện được nhiệm vụ trọng
tâm trong chiến lược phát triểncủa Nhà
trường, tác giả đề xuất các giải pháp
nhằm thúc đẩy phát triển hoạt động khoa
học và công nghệ Nhà trường, nâng cao
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 6
số lượng công bố khoa học và cải thiện
hình ảnh trong nước và quốc tế, cụ thể
như sau:
Một là, Đội ngũ cán bộ giảng dạy,
nghiên cứu viên không ngừng phát triển
chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ, mở
rộng hợp tác trong lĩnh vực chuyên môn
và phải xác định nhiệm vụ trọng tâm là
hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn liền
và không tách rời giữa nghiên cứu khoa
học và giảng dạy, lấy kết quả NCKH
phục vụ cho công tác đào tạo và phục vụ
thực tiễn. Điều này, từ trước đến nay,
Nhà trường chưa thực hiện được;
Hai là, Hội đồng khoa học Nhà
trường phải xây dựng chiến lược, định
hướng nghiên cứu khoa học cho từng
năm và phương hướng hoạt động cho
từng giai đoạn. Các đề tài NCKH của
cán bộ, giảng viên phải đảm bảo về số
lượng và chất lượng, tách rời nhiệm vụ
KH&CN biên soạn tài liệu giảng dạy,
giáo trình với nhiệm vụ NCKH thực
nghiệm, ứng dụng sản xuất. Sự phát
triển NCKH thực nghiệm và sản xuất sẽ
đảm bảo kết quả nghiên cứu, phục vụ
viết báo khoa học xuất bản các tạp chí
chuyên ngành trong nước và quốc tế,
ứng dụng chuyển giao công nghệ ra
thực tế;
Ba là, Để nâng cao trình độ chuyên
môn và hướng đến các đề tài NCKH
thực tế có chất lượng như hai giải pháp
trên đây, cán bộ, giảng viên phải chủ
động mở rộng phát triển nhóm nghiên
cứu hoặc trong trường hoặc liên kết
ngoài trường nhằm nâng cao năng lực
NCKH, từ đó có cơ sở tiếp cận, thực
hiện các dự án đề tài cấp tỉnh, cấp bộ và
Nhà nước. Bởi hiện tại, các cá nhân
nghiên cứu tại trường mang tính độc lập,
chưa kết nối các nhà khoa học với nhau,
do vậy, những dự án khoa học với nguồn
kinh phí lớn từ Tỉnh và Trung ương chưa
thể tiếp cận được. Đa số các dự án khoa
học với nguồn kính phí lớn mới đảm bảo
cho quá trình công bố khoa học quốc tế.
Bên cạnh đó, dựa vào hoạt động của dự
án, cán bộ, giảng viên có cơ hội tham gia
các diễn đàn khoa học, hội thảo quốc tế
về lĩnh vực chuyên môn phụ trách, tiếp
cận các nhà khoa học thế giới và nhận
thức được xu hướng phát triển lĩnh vực
nghiên cứu, hạn chế các nghiên cứu ngõ
cụt, khó ứng dụng và khó xuất bản;
Bốn là, Đảng ủy, Ban Giám hiệu
Nhà trường quan tâm nhiều vào các hoạt
động nghiên cứu khoa học của giảng
viên và sản phẩm công bố khoa học.
Nhà trường tạo cầu nối cho Giảng viên
tiếp cận với các Giáo sư, các nhà khoa
học quốc tế từ đó mở rộng hoạt động
nghiên cứu khoa học, dự án liên kết
quốc tế. Nhà trường có thể lập Quỹ ủng
hộ cho các dự án liên kết quốc tế trong
nghiên cứu khoa học và công bố khoa
học. Nhà trường nâng cao số hóa các
hoạt động đào tạo, khoa học và công
nghệ đưa lên website Nhà trường, đây
là giải pháp giúp mang hình ảnh Nhà
trường ra thế giới, giúp các hệ thống
đánh giá, phân hạng các trường Đại học
của các tổ chức uy tín có cơ sở đánh giá
và đưa vào tiêu chí xếp loại;
Năm là, Giảng viên phải tự nâng
cao ngoại ngữ.Ngoại ngữ là một công cụ
quan trọng trong thời kỳ thế giới đang
xích lại gần nhau và hội nhập toàn
cầu.Ngoại ngữ giúp giảng viên tiếp xúc
được nền khoa học mới đang cập nhật
trên phương tiện đại chúng hàng giờ,
hàng ngày.Ngoại ngữ giúp kết quả
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 7
nghiên cứu của giảng viên và kết quả
nghiên cứu của nhà khoa học thế giới
được liên thông, kết nối nhau. Đơn giản
hơn, ngoại ngữ giúp mang hình ảnh Nhà
trường ra thế giới qua công bố khoa học
và các hội thảo quốc tế. Do vậy, hội
nhập giáo dục, khoa học và công nghệ
trong khu vực và thế giới không thể
không phủ nhận vài trò của ngoại ngữ.
4. Kết luận
Trên cơ sở cung cấp những thông
tin thành tựu khoa học và công nghệ,
giáo dục của các trường Đại học của
Việt Nam so với khu vực và thế giới,
một hệ thống đánh giá trường Đại học
theo tiêu chí của Webometrics đã được
tìm nghiên cứu, tìm hiểu và giới thiệu.
Bài báo cũng đưa ra nhìn nhận thẳng
thắn vị trí của Trường Đại học Xây dựng
Miền Trung, những tồn tại, hạn chế và
thách thức hiện nay. Từ đó, tác giả đã
nêu ra các giải pháp mà tập thể Nhà
trường và cán bộ, giảng viên cần phải
thực hiện để cùng nhau xây dựng năng
lực nghiên cứu cá nhân, đưa sự phát
triển của Nhà trường theo đúng hướng
với các trường Đại học trong nước và
quốc tế. Tuy các giải pháp đưa ra còn
mang tính tổng quát, thực hiện và triển
khai sẽ còn phụ thuộc nhiều vào chất
lượng cán bộ, giảng viên, cơ sơ vật chất,
điều kiện địa lýhiện tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cơ sở dữ liệu Web of Knowledge của NXB Thomson
Reuters.www.webofknowledge.com.
[2] Đinh Ái Linh, Trần Trí Trinh. 2015. Bảng xếp hạng QS châu Á và khả năng hiện
diện của các trường Đại học Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu
Giáo dục, Tập 31, Số 3 (2015), 50-57.
[3] Nguyễn Văn Tuấn. Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn.
[4] Kỷ yếu hội thảo khoa học: Đánh giá và xếp hạng các trường Đại học và Cao đẳng
Việt Nam. Ban liên lạc cá trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam. 2010.
[5] Đỗ Đình Thái, Hồ Văn Bình và Lê Chi Lan. 2013. Một số công tác chuẩn bị cho
một trường Đại học tham gia xếp hạng trên Webometrics. Tạp chí Khoa học- ĐHSP
TPHCM, số 45, 194-200.
[6] Acedemic Ranking of World Universities,
[7] Times Higher Education Supplement,
[8] Ranking Web of Universities,