Tóm tắt
Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đây
là lực lượng cần thiết thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
nhiều quan điểm về giáo dục và đào tạo có giá trị to lớn như: mục đích của giáo dục và đào tạo, nội
dung giáo dục và đào tạo, phương pháp giáo dục và phải đào tạo được đội ngũ giáo viên có năng lực
cho nền giáo dục mới. Những nội dung đó đã được Đảng vận dụng vào nền giáo dục đào tạo của nước
ta hiện nay, đặc biệt ở các trường đại học. Sự vận dụng đó đã đạt được một số thành tựu quan trọng
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của Việt Nam, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế cần khắc
phục. Bài báo đã trình bày được các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đồng thời
làm rõ sự vận dụng của Đảng vào giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, sự vận dụng của Đảng vào giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
120
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, sự vận dụng
của Đảng vào giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
Ho Chi Minh's thought about education and training, the application
of the Party to Vietnamese higher education at present
Nguyễn Thị Tình, Vũ Thị Lương, Phạm Thị Mai
Email: tinh261086@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 27/4/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/6/2019
Ngày chấp nhận đĕng: 28/6/2019
Tóm tắt
Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đây
là lực lượng cần thiết thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
nhiều quan điểm về giáo dục và đào tạo có giá trị to lớn như: mục đích của giáo dục và đào tạo, nội
dung giáo dục và đào tạo, phương pháp giáo dục và phải đào tạo được đội ngũ giáo viên có nĕng lực
cho nền giáo dục mới. Những nội dung đó đã được Đảng vận dụng vào nền giáo dục đào tạo của nước
ta hiện nay, đặc biệt ở các trường đại học. Sự vận dụng đó đã đạt được một số thành tựu quan trọng
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của Việt Nam, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế cần khắc
phục. Bài báo đã trình bày được các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đồng thời
làm rõ sự vận dụng của Đảng vào giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo; giáo dục đại học; giáo
dục đại học ở Việt Nam.
Abstract
Education and training play an important role in training high quality human resources, which is an
essential force to promote the development of each nation. Therefore, President Ho Chi Minh gave
many views on education and training of great value such as the purpose of education and training,
the content of education and training, as well as the methods of education and training to create well
qualified teachers for new education. Those contents have been applied by the Party to our country's
education and training today, especially in universities to improve the quality. That application has gained
some important achievements that contribute to improving the quality of education in Vietnam, besides
there are still some limitations to overcome. The article presented the basic contents of Ho Chi Minh’s
thought about education, and clarified the Party's application to the current higher education in Vietnam.
Keyword: Ho Chi Minh’s thought; Ho Chi Minh’s thought about education and training; higher education;
higher education in Vietnam.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi
lạc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng
thời là nhà giáo dục, nhà vĕn hoá lớn của thế giới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
việc mở mang dân trí, chĕm lo cho sự nghiệp giáo
dục. Với nhiệm vụ trọng đại là nâng cao dân đức,
mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài thì nền giáo dục mới chính là động lực
phát triển của đất nước. Tư tưởng về giáo dục
và đào tạo của Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự
quan tâm đặc biệt đến con người và coi trọng con
người. Những nĕm qua, tiếp thu và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Đảng
và Nhà nước luôn khẳng định vai trò hết sức quan
trọng của giáo dục, nhất là giáo dục đại học trong
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Sự
vận dụng đó đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần xây dựng và phát triển con người
Việt Nam, xã hội Việt Nam.
Việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
Người phản biện: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải
2. TS. Phạm Thị Hồng Hoa
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
121Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
đào tạo không những góp phần làm sáng tỏ thêm
tư tưởng của Người mà còn có giá trị rất lớn đối
với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt
Nam hiện nay.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
2.1. Mục đích của giáo dục đào tạo là xây dựng
con người mới
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt trong tư tưởng
về giáo dục và đào tạo của Hồ Chí Minh là vì con
người, cho con người, xây dựng con người mới
và đào tạo ra những con người biết làm chủ nước
nhà. Trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay cần đào tạo được những con
người xã hội chủ nghĩa và phải biết chú trọng
nhiệm vụ học tập. Giáo dục nhằm đào tạo lớp
người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng
của nước nhà. Một nền giáo dục mới là phải thực
hiện dạy và học theo hướng phục vụ Tổ quốc và
nhân dân. Học để làm việc, làm người, làm cán
bộ. Học để sửa chữa tư tưởng. Học để tu dưỡng
đạo đức cách mạng. Học để tin tưởng. Học để
hành. Giáo dục để đào tạo con người mới và cán
bộ mới. Chất lượng và hiệu quả giáo dục không
phải ở chỗ học nhiều, học vẹt, học thuộc lòng từng
câu từng chữ, mà là giáo dục người học trở thành
những người công dân hữu ích cho đất nước, một
nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những nĕng
lực sẵn có của những người trẻ tuổi. Đây là một
nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài, vừa cấp bách
đối với Việt Nam. Giáo dục là yếu tố quyết định
trực tiếp nâng cao trình độ học vấn và giúp người
học có kiến thức về lịch sử, vĕn hóa của dân tộc
Việt Nam, thế giới. Để thực hiện được mục đích
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền giáo dục
mới phải có nội dung toàn diện.
2.2. Nội dung giáo dục phải toàn diện và đào
tạo ra những con người vừa “hồng”, vừa
“chuyên”
Trong giáo dục cần tránh tình trạng học lệch về
một mặt nào đó, nặng về chuyên môn, xem nhẹ
quan điểm tư tưởng, nặng lý thuyết, xem nhẹ thực
hành. Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tính toàn
diện, cả nĕng lực và phẩm chất của người học.
Theo Người, sản phẩm của giáo dục phải là những
con người “hoàn toàn” vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Trước hết phải giáo dục chính trị tư tưởng, theo
Hồ Chí Minh, chính trị là linh hồn, chuyên môn là
cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì
chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước
rồi có chuyên môn. Thống nhất chính trị tư tưởng
sẽ thống nhất hành động. Giáo dục chính trị tư
tưởng sẽ giúp khắc phục tư tưởng lạc hậu, nâng
cao tinh thần tự giác, tính tích cực của người học.
Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa thì trước hết
phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính trị tư
tưởng làm cho người học tin tưởng vào Đảng, vào
nhân dân, vào tương lai tươi sáng của cách mạng.
Giáo dục đạo đức cách mạng, Người khẳng định:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [7]. Trong
giáo dục, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở rèn luyện
đạo đức là phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu
chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động,
thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động
và bảo vệ Tổ quốc. Thầy và trò phải yêu nước
thương nòi, có ý chí tự lập tự cường, quyết không
chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ. Mọi
người phải có tinh thần chất phác, hĕng hái, cần
kiệm, xóa bỏ những vết tích nô lệ trong tư tưởng
và hành động; tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ...
Giáo dục vĕn hóa, chuyên môn, Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến vĕn hóa ứng xử trong nhà trường.
Đó là cách ứng xử giữa thầy và trò, giữa thầy và
thầy, giữa trò và trò, giữa thầy và trò với người
quản lý. Cùng với giáo dục vĕn hóa là giáo dục
chuyên môn về khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội và các nghiệp vụ khác. Người chỉ rõ đối với đại
học thì chú ý cần kết hợp lý luận khoa học với
thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên
tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của
Việt Nam, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây
dựng nước nhà.
Các nội dung trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh
khái quát lại trong hai chữ “tài” và “đức”. Theo Hồ
Chí Minh, mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là
phải đào tạo ra những con người vừa hồng, vừa
chuyên, vừa có đức, vừa có tài: “Trong giáo dục
không những phải có tri thức phổ thông mà phải
có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức...” [4].
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh những nội dung cốt
yếu trong quá trình giảng dạy và học tập của mỗi
người là: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng
cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là
cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức
cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách
mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một
lòng, một dạ phục vụ nhân dân” [12]. Bên cạnh
đó, Người cũng lưu ý nội dung giáo dục được đưa
vào giảng dạy phải theo nguyên tắc “Quý hồ tinh
bất quý hồ đa” (quý ở chất lượng, không quý ở
số lượng).
122
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Với nội dung giáo dục toàn diện như trên, đã góp
phần đào tạo những con người phát triển cả phẩm
chất và tài nĕng của con người mới - con người
xã hội chủ nghĩa.
2.3. Giáo dục đào tạo phải có phương pháp
phù hợp
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp
giáo dục. Người nhấn mạnh, muốn học tập có kết
quả tốt thì phải có phương pháp giáo dục đúng
đắn. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đưa ra một số phương
pháp như sau:
Thứ nhất, kết hợp học với hành, lý luận gắn với
thực tiễn. Tầm quan trọng của lý luận và sự cần
thiết phải học tập lý luận được Hồ Chí Minh khẳng
định trong nhiều bài nói, bài viết. Người nghiêm
khắc phê phán bệnh coi thường lý luận, tình trạng
kém và thiếu lý luận, lý luận suông, chỉ học thuộc
lòng để đem lòe thiên hạ. Người cũng lưu ý, lý
luận phải đem ra thực hành, thực hành phải theo
lý luận : “ Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học
tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó,
trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh:
lý luận phải liên hệ với thực tế” [8]. Và “Học phải
suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí
nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp
với nhau” [12].
Thứ hai, dạy học phải phù hợp với trình độ người
học, phù hợp với lứa tuổi. Theo Hồ Chí Minh, khả
nĕng nhận thức của mỗi người là khác nhau, hoàn
cảnh, điều kiện và tính cách cũng khác nhau. Do
đó, muốn thực hiện tốt phương pháp này, giáo
viên và người tổ chức phải có khả nĕng hiểu biết
và nắm vững đặc điểm, tâm lí của đối tượng giáo
dục, đồng thời phải cĕn cứ vào nhu cầu của người
học trong quá trình giáo dục.
Thứ ba, học tập phải liên tục và suốt đời. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh học tập là một việc phải thực hiện
suốt đời: “học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt
đời Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi,
biết hết rồi, thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta
ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục
học và hành để tiến kịp nhân dân” [6]. Người cũng
là một tấm gương học tập suốt đời bền bỉ và khiêm
tốn, theo Người còn sống là còn phải học.
Thứ tư, sửa đổi triệt để chương trình, sách giáo
khoa cho phù hợp với từng giai đoạn và nhiệm vụ
của cách mạng như kháng chiến, kiến quốc, khôi
phục kinh tế, củng cố quốc phòng, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà,...
Người nói: Giáo dục như người làm ra hàng. Làm
ra hàng phải đúng với nhu cầu của người tiêu thụ.
Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều
bình tích thì hàng ế. Giáo dục cũng phải cĕn cứ
vào trình độ vĕn hóa, thói quen sinh hoạt, trình
độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý
muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Vì vậy,
cần có tài liệu thích hợp với từng đối tượng, nếu
tài liệu không thích hợp thì học không có lợi gì [5].
Như vậy, để chuyển tải nội dung giáo dục một
cách có hiệu quả nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra những phương pháp hết sức sinh động
và thiết thực. Tất cả những phương pháp đó luôn
mang tính linh hoạt, mềm dẻo, ứng phó kịp thời
với mọi tình huống trong giáo dục. Để thực hiện
được những phương pháp giáo dục đó cần phải
xây dựng được đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất
và nĕng lực.
2.4. Xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ phẩm
chất và nĕng lực chuyên môn
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của
thầy, cô giáo đối với xã hội. Người nhấn mạnh:
"Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ
sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo
tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ
vang nhất..., những người thầy giáo tốt là những
anh hùng vô danh... Nếu không có thầy giáo dạy
dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng
chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy, nghề thầy giáo rất
là quan trọng, rất là vẻ vang" [11] .
Ðể làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, người thầy giáo
phải có chuyên môn vững và phẩm chất tốt. Bác
nhắc nhở: "Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài
là vĕn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn
cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức...
Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất
là đối với trẻ con" [9]. Với quan điểm như vậy,
trong quá trình giáo dục, người giáo viên phải luôn
ý thức trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng
rèn luyện chuyên môn, phải là tấm gương sáng để
học sinh noi theo, phải gương mẫu từ lời nói đến
việc làm, phải thương yêu chĕm sóc học sinh như
con em ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề,
yêu trường, không ngừng học hỏi để tiến bộ mãi.
Bên cạnh đó, mỗi giáo viên còn phải tự hình thành
cho mình những nĕng lực sư phạm khác như:
nĕng lực dạy học, nĕng lực ngôn ngữ, nĕng lực tổ
chức, nĕng lực giao tiếp,
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã
vạch ra phương hướng cơ bản cho chiến lược con
người, chiến lược phát triển giáo dục ở Việt Nam
trong suốt mấy chục nĕm qua và cả thời gian sắp
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
123Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
tới. Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng và Nhà
nước Việt Nam hết sức quan tâm đến giáo dục và
khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục đối với
sự phát triển của Việt Nam, đặc biệt là giáo dục
đại học.
3. VẬN DỤNG VÀO GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ
trên thế giới cùng với quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế đang phát triển mạnh mẽ.
Trong xu thế đó, Việt Nam tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Bối cảnh đó đã đặt
ra yêu cầu đối với Việt Nam là phải xây dựng được
nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, Đảng luôn
chú trọng việc tiếp thu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục vào công tác giáo dục nói
chung và giáo dục đại học nói riêng. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương đúng đắn
để lãnh đạo, phát triển giáo dục - đào tạo đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Quá trình vận dụng này đã đạt được
một số kết quả nhất định.
3.1. Kết quả của giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay
Quy mô các trường đại học ở Việt Nam tĕng lên
nhanh chóng. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, tháng 9 nĕm 2009 chỉ có 150 trường đại
học, trong đó có 44 trường tư thục. Nhưng đến
nĕm 2018, hệ thống giáo dục Việt Nam hiện có
235 trường đại học, học viện, tĕng gấp 1,57 lần so
với nĕm 2009 (bao gồm 170 trường công lập, 60
trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn
nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được
giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phân bố ở
hầu hết khắp các vùng trên cả nước.
Từ quy mô như trên chúng ta có thể khẳng định,
công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được đẩy
mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục
được huy động ngày càng nhiều. Sự phân bố các
cơ sở giáo dục đại học đã dần rộng khắp trên
phạm vi cả nước. Điều này là hết sức quan trọng
trong việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ có chất
lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của từng địa phương và
cả nước và đạt được mục đích của giáo dục.
Cũng theo kết quả thống kê của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, quy mô sinh viên của các trường đại
học nĕm học 2016-2017 tĕng 0,84% so với nĕm
2015-2016, nĕm học 2015-2016 trên cả nước có
1.753.174 sinh viên, nĕm học 2016-2017 tĕng lên
1.767.679 sinh viên, trong đó có 1.524.904 sinh
viên học hệ công lập, 64.798 sinh viên học hệ
ngoài công lập. Đến nĕm 2018-2019, sinh viên đại
học chính quy gồm 1.443.000. Với quy mô như
vậy đã giúp cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao của Việt Nam có thể đáp ứng được nhu
cầu của thời đại, góp phần xây dựng đất nước.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động được sinh viên
tích cực tham gia để vận dụng kiến thức đã học
vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong cuộc
sống. Nĕm 2018, giải thưởng nghiên cứu khoa
học của sinh viên đã thu hút được tổng số 389 đề
tài với tổng số sinh viên tham gia là 982. Đây là
những đề tài xuất sắc nhất được lựa chọn từ hàng
nghìn đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên
ở 88 trường đại học, học viện trong cả nước. Kết
quả, Hội đồng chung khảo đã xét chọn được 9 đề
tài đạt giải Nhất như: đề tài “Xây dựng sách ảnh
minh họa kiến thức Tâm lý học đại cương dành
cho sinh viên các khoa không chuyên Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” của nhóm
sinh viên: Nguyễn Hải Uyên, Vũ Thị Yến Nhi, Trần
Thị Thu Trang, khoa Tâm lý học, Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; 96 đề tài đạt
giải Ba, 137 đề tài giải Khuyến khích. Tổng số có
249 đề tài đạt giải do 698 sinh viên thực hiện [14].
Với những kết quả trên đã góp phần thực hiện
được mục đích của giáo dục đại học Việt Nam hiện
nay là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và nĕng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Xây dựng những con người mới xã
hội chủ nghĩa, chủ động tích lũy kiến thức cũng
như rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Tuy nhiên, một bộ phận sinh viên chưa đáp ứng
được yêu cầu của xã hội trong quá trình hội nhập
quốc tế, khả nĕng ngoại ngữ và kỹ nĕng mềm
còn yếu. Các trường đại học Việt Nam hiện nay
chưa đào tạo được lực lượng lao động có trình
độ chuyên môn cao tương ứng với nhịp độ tĕng
trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế. Việc đào tạo
ồ ạt dẫn đến nghịch lý là số lượng sinh viên đông
nhưng chất lượng chưa tương xứng đã khiến
các cử nhân sau khi ra trường khó có thể tìm cho
mình một công việc thích hợp. Sinh viên khó có
khả nĕng tiếp cận thị trường lao động do kỹ nĕng
mềm còn hạn chế. Nhiều cử nhân khi làm việc tại
các doanh nghiệp thì vẫn phải đào tạo lại. Hạn
chế nữa lớn nhất với sinh viên Việt Nam là khả
124
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
nĕng ngoại ngữ, nhất là trong thời kỳ hội nhập thì
đó thực sự là rào cản lớn. Vì vậy, hằng nĕm có
khoảng 72 nghìn sinh viên không có việc làm sau
khi tốt nghiệp 12 tháng là điều đáng lo ngại [13].
Vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã vận dụng quan
điểm của Hồ Chí Minh khẳng định phải hoàn thiện
hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống
giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội
học tập; quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch
phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực.
3.2. Nội dung giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay
Đảng đã đưa ra quan điểm về giáo dục đào tạo
là phải giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, giáo dục đạo đức, lối
sống và nâng cao trình độ chuyên môn là những
nội dung quan trọng trong giáo dục đại học.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, vĕn hóa, đạo
đức trong các trường đại học rất được chú trọng.
Các môn học về chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí