Tóm tắt
Trong toàn bộ tài sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc, tuy không có tác phẩm nào
bàn riêng về nguồn lực con người nhưng tư tưởng về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con
người lại là một tư tưởng lớn, xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người. Để đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020,
một nhiệm vụ đặt ra chính là nghiên cứu, khai thác giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực
con người. Bài viết này mong muốn góp phần làm rõ nội dung, giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
này.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015
76
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người
Ho Chi Minh’s ideology – Human resource promotion
ThS. Lâm Thị Kho
Trường Cao đẳng Cần Thơ
M.A. Lam Thi Kho
Can Tho College
Tóm tắt
Trong toàn bộ tài sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc, tuy không có tác phẩm nào
bàn riêng về nguồn lực con người nhưng tư tưởng về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con
người lại là một tư tưởng lớn, xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người. Để đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020,
một nhiệm vụ đặt ra chính là nghiên cứu, khai thác giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực
con người. Bài viết này mong muốn góp phần làm rõ nội dung, giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
này.
Từ khóa: nguồn lực con người, Hồ Chí Minh
Abstract
In the spirit of the whole invaluable property that Ho Chi Minh leaves to our nation, there is no
separating discussion which works on human resource promotion that is considered as a great thought
throughout his ideology. To promote the cause of industrialization and modernization of the country,
that makes our country one by 2020, the main task is studying and exploiting the value of his thought on
the issue. This article contributes to the clarification of the content, and the values of Ho Chi Minh on
the matter.
Keywords: human resource, Ho Chi Minh
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước
phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đã và đang được vận dụng một cách sáng
tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cốt
lõi của toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh là gắn mục tiêu giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Vấn đề con người, chăm lo, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực con người là
một vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn
bộ tư tưởng, hành động của Người. Hồ Chí
Minh xem con người là “vốn”quý vì vậy
nguồn lực con người là “nguồn vốn” quý
báu cần được bồi đắp và phát huy trong
toàn bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
niệm về con người được xây dựng trên nền
tảng quan điểm biện chứng duy vật về lịch
sử. Bản chất Con người là tổng hòa của các
quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng. Người
từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả
77
loài người” [4]. Hồ Chí Minh không bao
giờ xem xét con người một cách trừu tượng
mà luôn luôn xuất phát từ con người hiện
thực, cụ thể trong các quan hệ xã hội với
nhiều bình diện, chiều cạnh khác nhau.
Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó,
trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân cả
nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người luôn tin vào sức mạnh của con
người, hết lòng thương yêu con người, quý
trọng con người, quan tâm bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực con người.
Sinh thời, tuy Hồ Chí Minh không có
một tác phẩm nào bàn riêng về nguồn lực
con người nhưng trên thực tế Người đã đề
cập đến nguồn lực con người một cách
toàn diện, sâu sắc. Hồ Chí Minh đề cập đến
nguồn lực con người trên hai phương diện
là con người cá nhân và con người cộng
đồng.
Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh
về nguồn lực con người xét trên phương
diện cộng đồng dân tộc đó là nguồn lực
nhân dân, sức mạnh của nhân dân, sức
mạnh của cả dân tộc đã được giác ngộ,
được đoàn kết, được lãnh đạo. Nói đến
“dân”, “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là nói đến toàn thể nhân dân, công
nhân, nông dân, trí thức, những người lao
động ở nước ta. Hồ Chí Minh luôn đánh
giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân,
xem đó là nguồn sức mạnh vô tận không gì
có thể thay thế. Người từng nói: “Dân là
vốn quý nhất, có dân là có tất cả”. Theo
Người, làm cách mạng giải phóng dân tộc
hay xây dựng xã hội mới, công việc nào
cũng khó khăn nhưng có nguồn lực của dân
thì dù việc khó mấy cũng làm được, qua đó
Người tổng kết thành kinh nghiệm mang
tính khái quát cao: “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đó chính là công nhân, nông dân, trí
thức, những người dân lao động không
phân biệt dân tộc, đảng phái, giàu, nghèo.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người luôn
nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, xem
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là
động lực vĩ đại quyết định thành công của
cách mạng. Từ lý luận và thực tiễn, Người
khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành
công”[7]; “đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công”[8]. Vì vậy, nói đến
nguồn lực con người với tư cách là cộng
động dân tộc là nói đến vai trò, sức mạnh
của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc.
Thứ hai, nguồn lực con người còn
được Hồ Chí Minh đề cập đến với tư cách
là những con người cụ thể. Trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí minh chỉ
rõ, đó là “con người xã hội chủ nghĩa”.
Trong lần nói chuyện với Đại hội đảng bộ
thành phố Hà Nội (20/6/1960), Hồ Chí
Minh đã nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa
và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[9]. Con
người xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của
Hồ Chí Minh đó là con người: Đức – Trí –
Thể - Mỹ, con người hội tụ trong mình cả
đức và tài, hồng và chuyên. Tổng hợp lại,
con người xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh
nhắc đến là con người phải hội đủ hai yếu
tố đức và tài. Đức chính là đạo đức cách
mạng, những phẩm chất tiêu biểu và Người
thường đề cập đó là: Trung với nước, hiếu
với dân; là yêu thương con người; là cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư Tài
trong quan niệm của Hồ Chí Minh là năng
lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
mỗi người. Đức và tài phải thống nhất, hài
hoà, tác động biện chứng với nhau. Trong
mối quan hệ giữa đức – tài, Người yêu cầu:
Tài càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức -
tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách
mạng đến thắng lợi. Mặt khác, Người quan
niệm “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài,
có cái đức sẽ đi đến cái trí.
Ở Hồ Chí Minh nói đến con người với
78
tư cách là một nguồn lực, là nói đến những
con người hiện thực, những con người với
tư cách là chủ thể tiến hành các hoạt động
thực tiễn, đang ngày đêm lao động, sản
xuất, chiến đấu với tinh thần, trách nhiệm
của người chủ nước nhà. Người chỉ rõ:
“Ngày nay tất cả những người lao động –
lao động chân tay và lao động trí óc – đều
phải nhận thật rõ: mình là người chủ nước
nhà” [10]. Và đã là người chủ thì phải:
“làm tròn nghĩa vụ của người chủ”, phải
“cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động”[10]. Con người chỉ trở thành
nguồn lực khi họ là những người lao động
có sức khỏe, trí tuệ, phẩm chất, năng lực.
Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng chủ nghĩa
xã hội là khó khăn, gian khổ muốn đạt
được mục đích thì “nhân dân ta phải ra sức
thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm, mỗi người phải cố gắng trở thành
người lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua,
anh hùng lao động”[10]. Người lao động là
nguồn lực của đất nước khi họ trở thành
những người lao động tiên tiến, anh hùng
lao động trên mặt trận sản xuất. Người tin
tưởng “chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây
dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo của hàng chục triệu
người”[8].
Xuất phát từ quan điểm cho rằng, sự
phát triển dựa trên phát huy nguồn lực con
người là yếu tố đảm bảo phát triển bền
vững. Người đặc biệt coi trọng công tác bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau bởi
“có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những
thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng
chủ nghĩa xã hội”[11]. Quan tâm sâu sắc về
việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau, trong Di chúc Người viết: “Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và cần thiết”[12]. Hồ Chí
Minh dành niềm tin tưởng đối với thế hệ
tương lai của đất nước vì thanh niên là
người chủ tương lai của đất nước, gánh vác
những trọng trách quan trọng là xây dựng
xã hội mới. Để phát huy nguồn lực tiềm
năng này Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cho các
cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề
để đào tạo thành những cán bộ và công
nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập
trường cách mạng vững chắc. Đó là đội
quân chủ lực trong công cuộc xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Đối với Hồ Chí Minh, nguồn lực con
người và việc phát huy nguồn lực con
người có vai trò quan trọng trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Hồ Chí Minh từng nói: “Vì chúng ta quên
một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô luận
việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to,
từ gần đến xa, đều thế cả” [4]. “Tất cả của
cải vật chất trong xã hội đều do công nhân
và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của
công nhân và nông dân, xã hội mới sống
còn phát triển” [5]; quần chúng còn là
người sáng tác nữa (các giá trị văn hóa -
tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở
khoa học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ:
“lực lượng dân chúng nhiều vô cùng dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một
cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to
lớn, nghĩ mãi không ra” [4]. Người tổng
kết: “cán bộ là gốc của công việc”, “muôn
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hoặc kém” [4]; “Chúng ta phải biết quý
trọng con người, nhất là công nhân, vì công
nhân là vốn quý nhất của xã hội”, “Phải
biết quý trọng sức người vì sức người là
vốn quý nhất của ta” [7]. Theo Hồ Chí
Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến
lên xã hội chủ nghĩa đều phải dựa vào
“vốn” con người, vào việc phát huy nguồn
lực con người. Nếu khinh dân, coi thường
việc sử dụng và phát huy nguồn lực con
người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại, có
thể dẫn đến thất bại.
Về phương diện phát huy nguồn lực
79
con người, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số
quan điểm như sau:
- Đảng phải tổ chức và vận động
dân chúng.
Theo Hồ Chí minh cách mạng là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải
việc của một hay hai người, muốn cách
mạng thành công trước hết Đảng phải vận
động, tổ chức dân chúng, làm cho dân
chúng giác ngộ về cách mạng. Người chỉ
rõ, để làm cách mạng thắng lợi, điều kiện
hàng đầu là phải có Đảng của giai cấp công
nhân, của cả dân tộc lãnh đạo, “để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi”[1]. Vì vậy, “Đảng Lao động
Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân,
nông dân, lao động trí óc, thật hăng hái,
thật giác ngộ cách mạng’[5]. Trong chiến
đấu, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ du kích
cũng phải biết vận động tổ chức dân chúng.
Người nói: “Nếu tập kích đánh tan được
quân giặc, và nếu quân cứu viện của giặc
không thể đến được thì bộ đội du kích có
thể lưu lại chỗ tập kích ít lâu để tuyên
truyền, tổ chức dân chúng”[2]. Nói về nông
dân, những người tay không rồi, Hồ Chí
Minh nhìn thấy ở họ có một sức mạnh vô
cùng to lớn nếu họ được giác ngộ cách
mạng và được tổ chức lại thành một khối
thống nhất. Người nói: “Nông dân giác ngộ
hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng
lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông
dân mới được giải phóng”[5]. Người luôn
tin tưởng “ta có hàng triệu chiến sĩ nông
dân, khi đã giác ngộ thì họ là những chiến
sĩ quyết chiến quyết thắng”[6]. Trong cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa, mục đích của việc vận động,
tổ chức dân chúng là làm cho dân chúng
giác ngộ cách mạng là việc làm trước.
Người nói: “Tụi tư bản và đế quốc chủ
nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hoá làm cho
dân ngu, lấy sức mạnh làm cho dân sợ,
lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho
dân nghe đến 2 chữ cách mệnh thì sợ rùng
mình. Vậy cách mệnh trước phải làm cho
dân giác ngộ”[6]. Bước vào thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhận
thức sâu sắc về tính chất phức tạp, khó
khăn của thời kỳ này. Người yêu cầu Đảng
phải làm cho dân chúng gác ngộ cao về chủ
nghĩa xã hội vì “Chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể xây dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ
và lao động sáng tạo của hàng chục triệu
người”. Có thể nói muốn phát huy nguồn
lực trong dân chúng cụ thể là nguồn lực
nhân dân, đầu tiên và trước hết Đảng phải
biết vận động và tổ chức dân chúng theo
mục tiêu chung của dân tộc.
- Biết dùng người để phát huy nguồn lực
con người
Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ
Chí Minh đã xác lập những quan điểm cơ
bản về thuật dùng người nhằm xây dựng và
phát huy nguồn lực con người với tinh thần
thực sự cách mạng và khoa học. Từ xưa
đến nay, các bật vĩ nhân, những người làm
nên nghiệp lớn đều có chung một tư tưởng:
“biết mình, biết người”. Biết chính là yếu
tố quyết định thành công “biết người mới
dùng đúng người”. Nhưng muốn biết người
trước hết phải tự biết mình. Hồ Chí Minh
cho rằng con người ta nếu không tự biết
mình thì khó biết người khác, muốn biết
đúng sự phải trái ở người ta thì trước hết
phải biết đúng sự phải trái ở mình. Người
nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết
mình cũng không phải là dễ”[5]. Từ nhận
định sâu sắc đó Người đã chỉ ra một số căn
bệnh làm cho người lãnh đạo không tự biết
mình. Đó là tự cao, tự đại, ưa người khác
nịnh mình, đem một cái khuôn khổ chật
hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau.
Để sửa chữa những bệnh ấy Người khuyên
cán bộ phải bỏ “kính có màu” mới có thể
hiểu đúng cán bộ, hiểu đúng nhân tài nghĩa
là khi xem xét nhân tài không nên chỉ nhìn
bề ngoài, không thể chỉ xét một lúc, một
khía cạnh, một thời điểm, một thời gian
ngắn hoặc chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời
gian dài, có một quá trình, vì mọi việc đều
80
có sự chuyển biến, con người cũng có sự
thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét
con người không thể cố định, bất biến mà
phải trong quá trình vận động, biến đổi.
Hồ Chí Minh nói “trong thế giới cái gì
cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng
biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ
quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải
biến hóa Quá khứ, hiện tại và tương lai
của mỗi người không phải luôn giống
nhau”[2].
Mặt khác, Hồ Chí Minh cho rằng
trong tất cả các yêu tố thì “nhân hoà” là
quan trọng nhất nên mục tiêu của dùng
người là đạt tới “Nhân hòa”. Dùng người
thực chất là phát huy mọi tiềm năng của
con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp
cho khối đại đoàn kết dân tộc giải quyết
những nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh
chủ trương, phát huy nguồn lực con người
trên nền tảng dùng những người tài. Người
tài hay nhân tài, theo Hồ Chí Minh, được
hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: “tài to, tài
nhỏ”, “người có công tâm, trung thành, sốt
sắng với quyền lợi của Tổ quốc, nhân dân”,
“người hiền tài”, “hiền năng”, “người hay,
người giỏi” nhưng có chung mục đích
“vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng
bào”. Người yêu cầu, dùng người phải
dùng cho đúng và dùng cho khéo. Dùng
đúng mà không khéo thì kết quả sẽ bị hạn
chế ngược lại khéo mà không đúng thì nhất
định sẽ hỏng việc, có khi còn hỏng cả
“người”. Đúng là yêu cầu cơ bản đầu tiên,
vì có đúng thì sẽ thể hiện khéo, chọn đúng
người là thực chất của việc dùng người, là
một khoa học. Khéo phải đảm bảo dẫn đến
cái đúng, cái khách quan, khéo là một nghệ
thuật. Trong cái đúng không thể không có
cái khéo và khéo dùng người phải hướng
tới đúng, lấy đúng làm tiền đề, làm nguyên
tắc. Đây là biện chứng của thuật dùng
người.
Vậy làm thế nào để dùng đúng người
và khéo dùng người? Theo Hồ Chí Minh,
muốn dùng người cho đúng, cho khéo
trước hết phải hiểu đúng, đánh giá đúng
con người. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng
thì phải thực hành thường xuyên xem xét
cán bộ. Phải xem một cách toàn diện:
Không chỉ ngoài mặt mà còn phải xem tính
chất của họ. Không thể xem một việc, một
lúc mà phải xem toàn cảnh lịch sử, toàn cả
công việc của họ, hoặc chẳng những xem
xét công tác của họ, mà còn phải xem xét
cách sinh hoạt của họ. Phải biết ưu điểm
của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của
họ. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng con
người, cán bộlãnh đạo còn phải mạnh dạn
giao việc cho họ, tin tưởng, yêu mến họ.
Quá trình đánh giá đòi hỏi chúng ta cần
phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật
rõ ràng rồi kết luận Có như thế mới thấy
được tài, tài mới được sử dụng. Người cất
nhắc: “phải tùy tài mà dùng người”, “phải
biết sử dụng đúng người đúng việc”, “phải
biết dụng nhân như dụng mộc”, dùng
người không nên làm như “giã gạo”, khi họ
sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá
lại nhắc lên vì một cán bộ bị nhắc lên thả
xuống ba bốn lần như thế là hỏng cả đời.
Dùng người là quan trọng, vì thế Hồ Chí
Minh nêu ra các yêu cầu đối với tổ chức
Đảng và người lãnh đạo trong khi đánh giá
cán bộ: “phải tỉnh táo, sáng suốt, để phân
biệt được đúng sai, thật giả, người tốt, kẻ
xấu”. Lãnh đạo phải lam sao để cán bộ” có
gan nói, có gan đề xuất ý kiến, có gan phụ
trách, có gan làm”, để cho các cấp cơ sở
“có quyền tự do quyết định” và quần chúng
có “ý kiến dân chủ từ dưới lên”. Trên cơ sở
hiểu đúng, đánh giá đúng và khéo dùng thì
khâu lựa chọn, bố trí, cất nhắc, phân phối,
là khâu chủ yếu nhất của việc dùng người,
dùng cán bộ.
- Cán bộ lãnh đạo phải biết trọng dụng,
đãi ngộ nhân tài
Trong những năm đầu vô cùng khó
khăn của chính quyền cách mạng, Hồ Chí
Minh viết một loạt bài “Về việc tiếp
chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng
chí tỉnh nhà”; “Thiếu óc tổ chức - một
81
khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân
dân”; “Nhân tài và kiến quốc” đặc biệt là
bài “Tìm người tài đức” với những lời lẽ
rất chân thành, kính trọng để chiêu hiền đãi
sĩ: “Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong
số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu
người có tài đức”. Trong bài “Toàn dân
kháng chiến”đăng trên báo cứu quốc ngày
11/5/1945, Người cũng nói: “Các thanh
niên nên cố gắng học tập các kỹ thuật để
trở thành những tay chuyên môn nhân tài
ứng dụng”. “Nhân tài nước ta dù chưa có
nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa
chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân
tài càng ngày càng phát triển càng thêm
nhiều”[3]. Đảng phải nuôi dạy cán bộ,
“như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán
bộ, trọng mỗi một người có ích cho công
việc chung của chúng ta”. Trọng dụng
nhân tài cho đất nước, Hồ Chí Minh không
chỉ trọng dung nhân tài trong Đảng mà còn
trọng dụng những nhân tài ngoài Đảng. Hồ
Chí Minh nói: “Chúng ta không được bỏ
rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà
đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết
với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ
giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu
nước”[4]. Với tinh thần đoàn kết chân
thành, không thiên kiến, không phân biệt
phái, Hồ Chí Minh đã quy tụ nhiều tài đức,
nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi
như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại,
Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan
Anh, Phạm Quang Lễ, Trần Hữu Tước
cùng chung vai gánh vác việc chung. Để
kêu gọi người tài giỏi ngoài Đảng phục vụ
cho cách mạng, theo Người trước hết, phải
có lòng vị tha, độ lượng vĩ đại thì mới có
thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư,
không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi
bị bỏ rơi; phải có thái độ vui vẻ thân mật;
phải thương yêu cán bộ. Đối với những cán
bộ có sai lầm thì phải phê bình cho đúng,
cho khéo.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh trọng
dụng nhân tài đi liền với đãi ngộ vì đãi ngộ
đúng người, đúng việc là mắt khâu quan
trọng để phát huy tài năng của họ. Từ
những ngày đầu của cách mạng, trong
“Mười chính sách của Việt Minh”, Người
nói nhiều đến chính sách đãi ngộ đối với