Tóm tắt
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động của mình đã để lại cho Đảng, nhân dân và quân đội
ta những tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự vô giá. Trong đó, tư tưởng về xây dựng lực lượng
dân quân du kích là một trong những tư tưởng đã thâm nhập sâu sắc trong quần chúng, trở thành sức
mạnh vật chất to lớn, đưa nhân dân ta đi đến chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhận thức đúng đắn
về vai trò của lực lượng dân quân du kích và chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp, Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra những chủ trương, đường lối xây dựng
lực lượng dân quân du kích phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo nên thắng lợi của dân tộc trong kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nền quốc
phòng toàn dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước
hiện nay.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 121
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du
kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954)
Ho Chi Minh’s congress on the development of the multi
personal and military population of the Hai Duong province
in the longterm foreign war (1946–1954)
Đặng Thị Dung
Email: dungdungdhsd@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 13/4/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/12/2018
Ngày chấp nhận đăng: 27/12/2018
Tóm tắt
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động của mình đã để lại cho Đảng, nhân dân và quân đội
ta những tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự vô giá. Trong đó, tư tưởng về xây dựng lực lượng
dân quân du kích là một trong những tư tưởng đã thâm nhập sâu sắc trong quần chúng, trở thành sức
mạnh vật chất to lớn, đưa nhân dân ta đi đến chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhận thức đúng đắn
về vai trò của lực lượng dân quân du kích và chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp, Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra những chủ trương, đường lối xây dựng
lực lượng dân quân du kích phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo nên thắng lợi của dân tộc trong kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nền quốc
phòng toàn dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước
hiện nay.
Từ khóa: Xây dựng lực lượng dân quân du kích ở Hải Dương giai đoạn 1946-1954; lực lượng dân quân
du kích; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích.
Abstract
President Ho Chi Minh during his activities left the Party, people and army of revolutionary thoughts
and invaluable military ideals. In it, the idea of building a guerrilla militia is one of the thoughts that have
penetrated deeply in the masses, becoming great material forces, bringing our people to victory over
all invading enemies. The right understanding of the role of guerrilla militia and guerrilla warfare in the
resistance war against the French, the Party of Hai Duong province has applied Ho Chi Minh thought
to set the guidelines, guidelines for building forces guerrilla militia in line with reality, contributing to the
victory of the nation in the national resistance against the French colonial period 1946-1954. This is also
the basis for the building of the entire people’s defense in the resistance war against American salvation
and in the period of construction and protection of the country today.
Keywords: Building guerrilla militias in Hai Duong period; guerrilla militia; Ho Chi Minh’s idea
of building militias.
Người phản biện: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải
2. TS. Phạm Thị Hồng Hoa
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi đất nước ta bị thực dân Pháp thống trị,
một vấn đề trọng đại đặt ra cho dân tộc ta là làm
thế nào một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đất
không rộng, người không đông, kinh tế nghèo nàn,
trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, không có quân
đội và vũ khí hiện đại lại có thể đánh thắng được
kẻ thù đế quốc hung bạo, có tiềm lực kinh tế và
quân sự lớn mạnh. Xuất phát từ lòng yêu nước,
thương dân, quyết chí giải phóng gông cùm nô lệ
cho đồng bào, tiếp thu và phát triển lý luận cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
thấy được sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo
của quần chúng nhân dân, Người đã khẳng định:
“Du kích là một cách chiến tranh của dân chúng
122
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, lực
lượng vũ trang ba thứ quân đã được hình thành
trong kháng chiến chống Pháp. Xã nào, thôn nào
cũng có dân quân du kích tạo thành một tấm lưới
rộng mênh mông, bao trùm cả nước, hễ giặc Pháp
và Việt gian bước chân tới đâu là mắc phải lưới đó
ngay. Trong kháng chiến họ rất kiên cường, trong
sản xuất họ rất hăng say tăng gia sản xuất và bảo
vệ lợi ích cho quần chúng. Chính vì thế Bác đã
khẳng định: “Du kích là một lực lượng vô cùng
to lớn trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Sức
du kích thật mạnh thì chiến tranh giải phóng nhất
định thắng lợi. Tổ chức chặt chẽ và rộng khắp,
trong vùng địch và xung quanh vùng địch, làng
nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích thì nó
trở thành một tấm lưới sắt, một thứ “thiên la, địa
võng” mà địch không tài nào thoát ra được. Địch
đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Địch làm gì cũng
bị phá hoại. Du kích làm cho địch có mắt cũng
như mù, có tai cũng như điếc, có chân tay cũng
như què. Một bộ phận địch thì bị du kích tỉa dần,
tỉa mòn. Bộ phận địch còn sống sót thì ăn không
yên, ngủ không yên, nghe gió thổi chim kêu cũng
hoảng sợ, rồi cũng bị tiêu diệt nốt” [7].
Như vậy, dân quân du kích giữ vai trò chiến lược,
quan trọng trong suốt quá trình đấu tranh vũ trang
giành thắng lợi cho cách mạng. Là lực lượng xây
dựng và bảo vệ hậu phương của ta. Địch luôn
phá hoại hậu phương của ta với nhiều thủ đoạn.
Nhưng bộ đội chủ lực cần tập trung tác chiến,
không thể dàn ra khắp mọi nơi. Vì vậy, dân quân
du kích và bộ đội địa phương là lực lượng quan
trọng để xây dựng và bảo vệ hậu phương một
cách hiệu quả nhằm làm tê liệt bộ máy của quân
thù, biến hậu phương địch thành tiền phương của
ta, mở rộng vùng tự do sau lưng địch Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân quân, tự vệ
và du kích là một lực lượng của toàn dân tộc, là
một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch
hung bạo thế nào, hễ động vào lực lượng đó, bức
tường đó thì địch nào cũng phải tan rã” [5].
2.2. Xây dựng lực lượng dân quân du kích
vững mạnh góp phần sử dụng triệt để chiến
thuật du kích, tạo nên thắng lợi của cách mạng
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Du kích là cách đánh
giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Mục
đích của chiến thuật du kích là đánh vào những
yếu điểm của kẻ thù địch. Lối đánh du kích bao
gồm các cuộc phục kích, phá hoại, đánh bất ngờ,
dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí
giới tốt và nhiều” [4]. Do vậy, xây dựng lực lượng
vũ trang, trong đó có lực lượng dân quân du kích
là tất yếu để phát huy sức mạnh toàn dân và thực
hiện cách đánh sáng tạo của dân tộc. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
dân quân du kích, Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong
những năm 1946-1954 đã tích cực xây dựng lực
lượng dân quân du kích phát triển về mọi mặt, đáp
ứng được yêu cầu của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH
2.1. Dân quân du kích là lực lượng chiến lược
tham gia sự nghiệp đấu tranh cách mạng
Dân quân du kích là lực lượng vũ trang quần
chúng gồm những công dân tình nguyện tham gia
công tác quân sự địa phương, có nhiệm vụ chiến
đấu chống giặc, bảo vệ chính quyền, nhân dân,
là lực lượng đông đảo nhất được vũ trang và có
tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất. Họ vừa
bám đất, bám dân, vừa đánh giặc, vừa cày ruộng,
vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa là quân, vừa là
dân. Đây là lực lượng hùng hậu để bổ sung cho
bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Dân quân du kích được tổ chức rất linh hoạt và
rộng rãi. Ở thành phố, họ là những người công
nhân; ở vùng nông thôn họ là những người nông
dân. Họ được tổ chức, trang bị, huấn luyện cách
sử dụng vũ khí cũng như hoạt động sáng tạo trên
địa bàn Ngoài những đơn vị gồm những người
hăng hái còn có các đội du kích như: “bạch đầu
quân”, “nữ du kích”, “thiếu niên du kích” Đó là
một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam, là nòng cốt để phát động toàn
dân kháng chiến.
Trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân (22-12-1944) Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng
chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân
và vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung
lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải
duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương
cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi
phương diện, cho nên cần phải tổ chức du kích
khắp nơi, tăng gia sản xuất khắp nơi” [10].
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 123
chớp nhoáng và rút lui nhanh. Do vậy, tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang, chiến
tranh và quân đội, xuất phát từ thực tiễn dân tộc
Việt Nam bị chủ nghĩa thực dân thống trị, ngay
khi mới về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú
trọng đến việc xây dựng các đội dân quân du kích
từ tiểu tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội đến chi đội.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một lực lượng
dân quân du kích lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng: Phải phát triển và củng cố dân quân
du kích về mọi mặt: tổ chức, trang bị, huấn luyện
và tổ chức chiến đấu. Đi đôi với việc xây dựng về
chính trị tư tưởng, phải xây dựng tổ chức thích
hợp và chú ý đến vấn đề trang bị. Phương hướng
chung để giải quyết vấn đề trang bị cho dân quân
du kích là phát triển vũ khí thô sơ. Dân quân du
kích phải sử dụng mọi loại vũ khí cổ truyền: chông
tre, cung nỏ, lao, giáo mác, cuốc và các vũ khí
lấy được của kẻ thù.
Người đã khẳng định, xây dựng dân quân du kích
phải dựa trên cơ sở quần chúng, cần phải có dân
chúng tham gia và giúp sức. Du kích như cá, dân
chúng như nước, cá không có nước thì cá chết,
du kích không có dân thì du kích chết. Cho nên
cần phải thu hút đông đảo quần chúng tham gia:
Ai là người dân Việt Nam khỏe mạnh, muốn đánh
Tây - Nhật, không sợ khó nhọc, nguy hiểm đều có
thể thành một đội viên du kích. Do đó phải làm cho
dân tin, dân phục, dân yêu, phải tổ chức chặt chẽ,
tập huấn hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo để có giặc
là đánh. Đồng thời phải có kỷ luật nghiêm minh.
Người khẳng định: Phải đặc biệt chú ý tổ chức
thật mạnh và nghiêm ngay trong vùng địch kiểm
soát kỷ luật phải nghiêm như sắt, tinh thần vững
như đồng, cái chí quật cường tất thắng, cái đạo
đức: trí, dũng, liêm, trung của giải phóng quân.
Để xây dựng dân quân du kích vững mạnh, trong
thư gửi Hội nghị dân quân toàn quốc (4-1948) Hồ
Chí Minh đã nêu bảy nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của dân quân du kích trong chiến tranh
cách mạng:
Một là, thiết thực tổ chức và thiết thực huấn luyện
dân quân du kích từng làng, lấy dân quân du kích
làng làm nền tảng; đồng thời phải kiện toàn các
đội du kích thoát ly.
Hai là, làm cho mỗi đội viên hiểu rõ và tin tưởng
vào lực lượng của ta, tin tưởng vào vũ khí thô sơ
của ta.
Ba là, phối hợp thật chặt chẽ với Vệ quốc quân.
Bốn là, làm cho mỗi đội viên hiểu rõ nhiệm vụ vẻ
vang của họ.
Năm là, làm cho họ hiểu rõ chiến thuật du kích là:
Phải luôn giữ quyền chủ động, phải tìm địch mà
đánh, phải luôn khuấy rối phá hoại địch, phải cộng
những thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to.
Sáu là, phải thực hành tự cấp, tự túc, bằng cách
thiết thực, bằng cách tăng gia sản xuất.
Bảy là, phải thực hành những điều đó bằng cách
thi đua.
Đồng thời, Người cũng đưa ra bốn mưu mẹo khi
đánh du kích: Thứ nhất: Tránh chỗ mạnh, đánh
chỗ yếu, náo phía Đông đánh phía TâyThứ hai:
Tránh trận gay go, không sống chết giữ đấtThứ
ba: Hóa chỉnh vi linh (nghĩa là phân tán), hóa linh
vi chỉnh (nghĩa là tập trung)Thứ tư: Mình yên
đánh quân thù động, mình khỏe đánh quân thù
mệt [6]. Những mưu mẹo này là cơ sở để dân
quân du kích đánh bất ngờ, linh hoạt, đánh nhanh
di chuyển nhanh, khi phân tán, lúc tập trung, đánh
địch mọi lúc, mọi nơi, đánh địch bằng mọi vũ khí
và bằng mọi hình thức.
Trong quá trình kháng chiến được Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện, dân quân du
kích đã trở thành nguồn nhân lực dồi dào bổ sung
và dự trữ cho việc mở rộng, phát triển bộ đội chủ
lực và bộ đội địa phương. Lực lượng dân quân
du kích đã phát triển rộng khắp. Tháng 4-1949,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập bộ
đội địa phương. Tháng 8-1949, Đại đoàn bộ binh
308 - Đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta
được thành lập. Tiếp đó, trong những năm 1950-
1952, các đại đội bộ binh 304, 312, 320, 316, 325
lần lượt được thành lập. Nhiều chiến sĩ và cán bộ
du kích có phẩm chất chính trị và kinh nghiệm đã
được bổ sung vào các đơn vị bộ đội chủ lực và
bộ đội địa phương. Dân quân du kích trong kháng
chiến chống Pháp đã phát triển cả về số lượng
và khả năng tác chiến, trở thành nòng cốt trong
phong trào toàn dân đánh giặc. Phối hợp cùng bộ
đội chủ lực và bộ đội địa phương đánh bại nhiều
cuộc càn quét của địch, mở rộng khu căn cứ, bảo
vệ vùng tự do của ta. Thực hiện chủ trương của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đẩy mạnh chiến
tranh du kích ở vùng sau lưng địch, dân quân du
kích đã phối hợp cùng bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận
sinh lực địch, nổi bật là trong chiến dịch Hòa Bình
124
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018
và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần vào thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Như vậy, xây dựng lực lượng dân quân du kích
và phát triển chiến tranh du kích góp phần tạo
lực, lập thế, đánh địch bằng mưu mẹo, lấy ít đánh
nhiều của dân tộc ta. Chiến tranh du kích phải tiến
lên chiến tranh chính quy và kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy, thực hiện quan
điểm chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc
một cách toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng dân quân du kích là một trong
những nội dung quan trọng, khoa học và nghệ
thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong thời đại mới.
3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI
DƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946–1954)
Hải Dương - một vùng đất thuộc châu thổ sông
Hồng, là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
nối liền thủ đô Hà Nội với Hải Phòng và Quảng
Ninh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới
sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xây dựng và phát triển lực lượng dân
quân du kích rộng khắp trong đó có lực lượng dân
quân du kích tỉnh Hải Dương. Ngay từ khi mới
thành lập, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã chú trọng
lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích từ
không đến có, từ yếu đến ngày càng vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm cùng cả nước đánh đuổi quân thù. Căn
cứ vào: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội, truyền thống dựng nước, giữ nước của nhân
dân cũng như nhiệm vụ quân sự của địa phương,
Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã có những chủ trương,
biện pháp đúng đắn, sáng tạo trong việc xây dựng
và phát triển lực lượng dân quân du kích địa
phương, làm nên những chiến công oanh liệt, góp
sức vào thắng lợi chung của dân tộc và làm rạng
rỡ thêm truyền thống anh hùng bất khuất trong
lịch sử chống giặc ngoại xâm của một vùng đất
“giàu của, giàu người, giàu chiến công” [2].
3.1. Đảng bộ tỉnh Hải Dương xác định dân
quân du kích là lực lượng chiến lược của cách
mạng, tích cực chỉ đạo xây dựng lực lượng
dân quân du kích giai đoạn 1946-1950
Xây dựng và phát triển lực lượng
Tháng 4 năm 1947, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ II họp tại Triều Dương xã Hòa Bình họp và
khẳng định: “Vừa đánh vừa bảo toàn lực lượng
và phát triển lực lượng. Phải xây dựng ba đại đội
mạnh, tiến lên thành tiểu đoàn bộ đội tỉnh. Mỗi
huyện xây dựng một đại đội, các xã phải phát
triển mạnh lực lượng dân quân du kích và lập đơn
vị du kích tập trung; đẩy mạnh huấn luyện quân
sự, thực hiện học quân sự ngay trong tác chiến
xây dựng tinh thần sẵn sàng chiến đấu; khuyến
khích các gia đình có điều kiện đứng ra đỡ đầu lực
lượng dân quân du kích” [9].
Ngày 29 tháng 8 năm 1949, Tỉnh ủy ra Nghị quyết
Phát động chiến tranh nhân dân, Nghị quyết chỉ
rõ: “Thành lập thêm các đội vũ trang tuyên truyền,
chú trọng đặc biệt việc xây dựng bộ đội địa
phương và dân quân du kích xã cả về số lượng
và chất lượng” [1].
Thực hiện theo chủ trương của Đảng bộ, các đoàn
thể như: Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ và lực
lượng vũ trang được các cấp ủy Đảng chăm lo xây
dựng cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng vũ
trang Hải Dương ngày càng phát triển, trong đó
có đội nữ du kích Mê Linh. Ngoài ra mỗi huyện
còn có một trung đội du kích thoát ly, nhiều xã có
du kích bán thoát ly hoạt động ngay tại địa bàn. Ở
một số xã trong huyện Nam Sách còn thành lập
đội lão dân quân như: Hợp Tiến, An Bình, Đồng
Lạc vừa xây dựng lực lượng dân quân du kích
công khai, vừa xây dựng lực lượng dân quân du
kích bí mật để diệt ác, trừ gian, bảo vệ cán bộ. Ở
Vĩnh Bảo, Ninh Giang còn thành lập các đội “Lão
dân quân”, “Thiếu niên dân quân” và hội “Mẹ chiến
sĩ” Tính đến cuối năm 1949, tỉnh Hải Dương có
5.875 du kích, 12.172 dân quân [9].
Xây dựng về chính trị
Xây dựng dân quân du kích phải đảm bảo vững
mạnh về chính trị, là cơ sở nâng cao chất lượng
tổng hợp để đủ sức chiến đấu bảo vệ làng, xã,
góp phần làm thất bại âm mưu của thực dân
Pháp. Tỉnh đã mở nhiều lớp cảm tình ở các tỉnh và
các huyện để giáo dục tư tưởng cho quần chúng.
Nội dung, chương trình học tập như: lịch sử tiến
hóa của nhân loại, chủ nghĩa cộng sản sơ giải,
tóm tắt lịch sử Đảng, đường lối chính sách kháng
chiến Nhờ vậy, nhân dân trong tỉnh đã nêu cao
hiểu biết về Đảng, về kháng chiến. Ngoài ra, Tỉnh
đội đã cử nhiều cán bộ quân sự đi tập huấn ở
khu hoặc ở các trung đoàn chủ lực. Các trường
quân chính thường xuyên mở lớp huấn luyện cho
các đồng chí cán bộ tiểu đội, trung đội và huyện
đội. Cán bộ của tỉnh đội, huyện xuống cơ sở huấn
luyện tại chỗ cho dân quân, du kích xã. Tháng
12 năm 1949, Tỉnh ủy Hải Dương quyết định cử
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 125
1/3 số đảng viên vào dân quân du kích. Bí thư chi
bộ hoặc thường vụ chi ủy trực tiếp làm công tác
chính trị viên xã đội. Qua đó tăng thêm sức mạnh
cho dân quân du kích vừa rèn luyện đảng viên
trong thực tế đấu tranh, nâng cao vai trò của Đảng
đối với lực lượng dân quân du kích. Đồng thời,
đã khơi sâu lòng căm thù cũng như khơi dậy lòng
yêu nước, hiểu rõ nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ thành quả cách mạng của mỗi một người dân.
Về tổ chức
Trong tỉnh đã thành lập các tổ đội chuyên môn để
hướng dẫn dân quân du kích làm vũ khí tự tạo
và hướng dẫn cách đánh, cách dùng vũ khí. Tổ
chức huấn luyện cho công binh, du kích và tự vệ
chiến đấu làm nòng cốt. Các đơn vị ở vùng tự do
đã lần lượt đưa các đơn vị lên vùng có chiến sự
để tập dượt, dưới hình thức “nghe súng”, vây đồn,
quấy rối phá hoại; một bộ phận được tổ chức
đi sản xuất nông nghiệp, các “trại dân quân thành
lập để du kích thoát ly, thay phiên nhau lao động
sản xuất”. Bên cạnh đó, các loại chông bẫy, mìn,
tre, nứa, gỗ, sành sứ, sắt vụn cũng là những
dụng cụ để phục vụ cho đời sống và sinh hoạt
đều có thể làm ra vũ khí để giết giặc. Nguyên liệu
sản xuất ra vũ khí không chỉ một vài nơi có, mà từ
đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn đến thành
thị đều có và không bao giờ hết. Nhân dân tự nghĩ,
tự làm phù hợp với sở trường mỗi người, mọi địa
phương, phù hợp với lối đánh giặc độc đáo của
dân tộc ta từ bao đời nay.
Quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
dân quân du kích, Tỉnh ủy đã lãnh đạo nhân dân
sản xuất vũ khí, xây dựng làng chiến đấu. Tính
đến cuối năm 1949, xưởng quân khí sản xuất
được 36.800 quả lựu đạn, 19.600 quả mìn. Xây
dựng được 200 làng chiến đấu, trong đó có các
làng rất kiên cố như làng chiến đấu thôn Nhân
Kiệt, xã Hùng Thắng (Bình Giang). Trong kháng
chiến chống Pháp, du kích đường 5 dùng mìn
đánh đổ một tàu chở quân, diệt và làm bị thương
100 tên lính Pháp. Ngoài ra còn làm tiêu hao lực
lượng địch khi dân quân du kích sử dụng vũ khí
tự làm khiến cho quân thù ở trong cứ điểm thì bị
phóng bắn,