Vài suy nghĩ về vấn đề giải quết mâu thuẫn

Trước đây cũng như hiện nay, đôi khi khái niệm “giải quyết mâu thuẫn” bị đồng nhất với việc xóa bỏ, loại trừ mâu thuẫn. Chúng tôi tán thành quan điểm của G.S. Batisep khi tác giả cho rằng: “loại bỏ mâu thuẫn biện chứng là hoàn toàn không có khả năng. Ở đây , nguyện vọng và ý chí của bất kỳ ai đều không có vai trò gì hết”(1). Chúng tôi cũng ủng hộ ý kiến của tác giả Nguyễn Linh Khiếu: Giải quyết mâu thuẫn không phải là mặt đối lập này thủ tiêu mặt kia một cách chủ quan để biến thành cái tuyệt đối và “giải quyết mâu thuẫn bằng cách các mặt đối lập đấu tranh thủ tiêu nhau, thực chất đó là quan điểm siêu hình”(2). Hậu quả của việc giải quyết mâu thuẫn bằng cách loại bỏ một mặt và giữ lại mặt kia là biến một mặt vốn là cái phiến diện, cái bộ phận thành cái toàn thể, cái tương đối thành cái tuyệt đối. Cách giải quyết mâu thuẫn kiểu như vậy có thể tìm thấy trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, như giải quyết mâu thuẫn giữa sở hữu xã hội và sở hữu tư nhân, giữa độc quyền và cạnh tranh, giữa kế hoạch và thị trường, giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, v.v. Tác giả Phạm Minh Lăng có lý khi nói rằng trong thời gian dài chúng ta đã “biến chủ nghĩa Mác vốn là cái hữu hạn thành cái vô hạn., cái tương đối.thành cái tuyệt đối”(3). Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph. Ăngghen đã phân biệt rõ hai cách “giải quyết mâu thuẫn”: - Một là, sự giải quyết cuối cùng của một mâu thuẫn. Sự giải quyết này có thể thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú. Một trong những hình thức đó là sự chuyển hóa cuối cùng của các mặt đối lập từ mặt này sang mặt kia. Ph. Ăngghen viết: “Biện chứng gọi khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ứng sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”(4). Đây chính là sự giải quyết mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và hình thái kinh tế - xã hội mới, v.v. Một hình thức chuyển hóa khác mà Ăngghen nói là “Sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên đến cực độ”(5). Về hình thức này , chúng ta có thể tìm thấy trong sự chuyển hóa từ mâu thuẫn giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô lên một hình thức mâu thuẫn giai cấp mới - mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ, và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này lên mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản. Mác, Ăngghen cũng nói đến việc giải quyết mâu thuẫn bằng cách “dung hợp” các mặt đối lập “thành một phạm trù mới” (6) hoặc sự xóa bỏ hoàn toàn mâu thuẫn khi nó đã phát triển đến đỉnh cao nhất của nó. Thí dụ, sự xóa bỏ hoàn toàn mâu thuẫn giai cấp trong chủ nghĩa xã hội.

doc7 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2321 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài suy nghĩ về vấn đề giải quết mâu thuẫn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VÀI SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUẾT MÂU THUẪN (Tạp chí Triết học số 2 (4-96) L.T.S. Vấn đề giải quyết mâu thuẫn, nhất là với mâu thuẫn xã hội là một vấn đề hết sức phức tạp. Xung quanh vấn đề này đã có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tác giả đưa ra một quan niệm riêng về khái niệm “giải quyết mâu thuẫn”, về những nguyên tắc chung của việc giải quyết mâu thuẫn xã hội, mà theo chúng tôi cần phải được thảo luận. Với mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn đọc với tác giả, Ban biên tập cho đăng bài viết này trong chuyên mục “Trao đổi ý kiến”. Phân tích mâu thuẫn gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn, vì mục đích của nó là để nhận thức đúng thực chất của từng mâu thuẫn cụ thể, hiện thực, từ đó tìm ra con đường, biện pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực của sự phát triển trong chừng mực nó được giải quyết thường xuyên, kịp thời và hợp quy luật. Trái lại, hiểu và vận dụng không đúng phương pháp phân tích và giải quyết những mâu thuẫn hiện thực đã là nguyên nhân của kkhông ít những sai lầm và tổn thất nghiêm trọng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới, đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, thất bại trong công cụôc cải tổ và sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây). Để làm sáng tỏ vấn này, chúng tôi xin góp một số ý kiến xung quanh khái niệm “giải quyết mâu thuẫn” và một số nguyên tắc chung của việc giải quyết mâu thuẫn xã hội. I. VỀ KHÁI NIỆM “GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN” Trước đây cũng như hiện nay, đôi khi khái niệm “giải quyết mâu thuẫn” bị đồng nhất với việc xóa bỏ, loại trừ mâu thuẫn. Chúng tôi tán thành quan điểm của G.S. Batisep khi tác giả cho rằng: “loại bỏ mâu thuẫn biện chứng là hoàn toàn không có khả năng. Ở đây , nguyện vọng và ý chí của bất kỳ ai đều không có vai trò gì hết”(1). Chúng tôi cũng ủng hộ ý kiến của tác giả Nguyễn Linh Khiếu: Giải quyết mâu thuẫn không phải là mặt đối lập này thủ tiêu mặt kia một cách chủ quan để biến thành cái tuyệt đối và “giải quyết mâu thuẫn bằng cách các mặt đối lập đấu tranh thủ tiêu nhau, thực chất đó là quan điểm siêu hình”(2). Hậu quả của việc giải quyết mâu thuẫn bằng cách loại bỏ một mặt và giữ lại mặt kia là biến một mặt vốn là cái phiến diện, cái bộ phận thành cái toàn thể, cái tương đối thành cái tuyệt đối. Cách giải quyết mâu thuẫn kiểu như vậy có thể tìm thấy trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, như giải quyết mâu thuẫn giữa sở hữu xã hội và sở hữu tư nhân, giữa độc quyền và cạnh tranh, giữa kế hoạch và thị trường, giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, v.v.. Tác giả Phạm Minh Lăng có lý khi nói rằng trong thời gian dài chúng ta đã “biến chủ nghĩa Mác vốn là cái hữu hạn thành cái vô hạn..., cái tương đối...thành cái tuyệt đối”(3). Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph. Ăngghen đã phân biệt rõ hai cách “giải quyết mâu thuẫn”: - Một là, sự giải quyết cuối cùng của một mâu thuẫn. Sự giải quyết này có thể thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú. Một trong những hình thức đó là sự chuyển hóa cuối cùng của các mặt đối lập từ mặt này sang mặt kia. Ph. Ăngghen viết: “Biện chứng gọi khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ứng sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”(4). Đây chính là sự giải quyết mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và hình thái kinh tế - xã hội mới, v.v.. Một hình thức chuyển hóa khác mà Ăngghen nói là “Sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên đến cực độ”(5). Về hình thức này , chúng ta có thể tìm thấy trong sự chuyển hóa từ mâu thuẫn giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô lên một hình thức mâu thuẫn giai cấp mới - mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ, và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này lên mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản. Mác, Ăngghen cũng nói đến việc giải quyết mâu thuẫn bằng cách “dung hợp” các mặt đối lập “thành một phạm trù mới” (6) hoặc sự xóa bỏ hoàn toàn mâu thuẫn khi nó đã phát triển đến đỉnh cao nhất của nó. Thí dụ, sự xóa bỏ hoàn toàn mâu thuẫn giai cấp trong chủ nghĩa xã hội. Điểm đáng chú ý trong việc giải quyết mâu thuẫn loại này là nó chỉ thực hiện như Ăngghen viết: “khi mâu thuẫn đó lên đến cực độ”. V.I. Lênin cũng viết: “chỉ khi nâng lên đến chóp đỉnh của mâu thuẫn thì những cái nhiều hình nhiều vẻ mới trở nên động (regsam) và sống đối với nhau, và mới chứa đựng một tính phủ định, tức là sự phốc động bên trong của tự vận động và của sức sống” (7). - Hai là, sự giải quyết thường xuyên của mâu thuẫn. Mâu thuẫn không phải chỉ được giải quyết một lần cuối cùng. Nó không phải, sau khi ra đời, được tích lũy dần dần mãi cho đến khi phát triển đến tột đỉnh mới được giải quyết, mà ngược lại, mâu thuẫn thường xuyên được giải quyết và thường xuyên tái tạo lại. Khi nói, “vận động là một mâu thuẫn”, Ăngghen cũng đã khẳng định rằng: “sự nảy sinh thường xuyên và giải quyết đồng thời mâu thuẫn này - đó chính là sự vận động” và “sự sống cũng là một mâu thuẫn... thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết”(8). Không những vận động cơ giới, vận động sinh vật, mà cả “nền sản xuất tư bản vận động trong những mâu thuẫn thường xuyên được khắc phục, nhưng cũng thường xuyên tái tạo như thế “(9). Với cách giải quyết này, mâu thuẫn không mất đi, không bị thủ tiêu hoàn toàn, mà chỉ là sự tái lập lại sự thống nhất (sự phù hợp, cân đối, ăn khớp...) giữa mặt đối lập bị phá vỡ do quá trình đấu tranh giữa chúng. Bởi vì, mâu thuẫn cũng như mỗi mặt đối lập đều nằm trong quá trình vận động, phát triển do đó sự phù hợp, cân đối, ăn khớp... ban đầu nhường chỗ cho sự không phù hợp, mất cân đối giữa chúng. Lúc này sự đấu tranh của các mặt đối lập trở nên gay gắt hơn, nhưng mâu thuẫn không bị phá vỡ, vì mỗi mâu thuẫn biện chứng khách quan đều có yếu tố điều chỉnh bên trong của nó, nhờ đó mà nó có khả năng tái lập lại sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Thí dụ: khi sản xuất và nhu cầu trở nên mất cân đối thì thị trường sẽ là yếu tố điều chỉnh, tái lập lại sự cân đối đó. Tương tự như vậy, chủ nghĩa tư bản có khả năng tự giải quyết những mâu thuẫn nhờ vai trò điều chỉnh của nhà nước của nó. Tuy nhiên, khả năng giải quyết mâu thuẫn bằng cách tự điều chỉnh không phải là vô hạn. Trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn phát triển càng cao thì khả năng đó càng giảm đi, và đến một giới hạn nhất định, mâu thuẫn hoàn toàn mất hết khả năng tự điều chỉnh, không thể tái lập lại sự thống nhất giữa hai mặt, hai mặt đối lập không thể dung hợp với nhau được nữa, lúc đó cuộc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ phá vỡ hoàn toàn sự thống cũ - tức là dẫn đến sự giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn đó. Tóm lại, chúng ta cần phân biệt hai cáhc giải quyết khác nhau của mâu thuẫn biện chứng khách quan: Sự giải quyết thường xuyên bằng cách tái lập lại sự thống nhất của các mặt đối lập khi bị sự đấu tranh của chúng phá vỡ, và sự giải quyết cuối cùng, tức sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này thành mâu thuẫn khác hay sự xóa bỏ hoàn toàn mâu thuẫn khi mâu thuẫn đo đã phát triển đến đỉnh cao của nó. II. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN XÃ HỘI Ngoài những nguyên tắc đã được phân tích kỹ trong các sách giáo khoa triết học như: giải quyết mâu thuẫn tùy thuộc vào bản chất và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn, xác định mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu để định ra nhiệm vụ chiến lược và nhiệm vụ trung tâm trước mắt, tuân thủ nguyên tắc tính phổ biến, tính đặc thù và tính riêng biệt trong việc giải quyết một mâu thuẫn, v.v., chúng tôi xin phân tích thêm một số điểm như sau: - Một là, cần quán triệt nguyên tắc tính khách quan trong việc giải quyết mâu thuẫn. Một trong những điểm khác nhau căn bản trong quan niệm của Mác và Hêgen về mâu thuẫn là điểm xuất phát để nghiên cứu và giải quyết mâu thuẫn. Mặc dù Hêgen cũng cho rằng “phép biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong chính bản chất của các đối tượng”, nhưng ông lại cho rằng bản chất của sự vật chính là “ý niệm”, do đó điểm xuất phát để nghiên cứu và giải quyết mâu thuẫn không phải là sự vật khách quan mà là bản thân khái niệm mâu thuẫn. Trái lại, Mác và Ăngghen cho rằng: “mâu thuẫn tồn tại một cách khách quan ở trong sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra dưới một hình thức hữu hình”(10). Nếu mâu thuẫn là quá trình khách quan và “tự giải quyết” thì con người không thể bằng ý chí chủ quan mà giải quyết mâu thuẫn được. Ở đây, ý chí và nguyện vọng của bất kỳ ai đều không có vai trò gì hết, như G.S. Batisép đã khẳng định như vậy. Tuy nhiên, mâu thuẫn xã hội khác với mâu thuẫn tự nnhiên ở chỗ mâu thuẫn xã hội ra đời, tồn tại và được giải quyết gắn liền với hoạt động của con người. Con người thông qua động của mình mà giải quyết mâu thuẫn, nhưng việc giải quyết đó không phụ thuộc ý muốn chủ quan của họ. Con người chỉ có thể, trên cơ sở phân tích một cách khách quan, chính xác từng mâu thuẫn hiện thực mà có cách giải quyết phù hợp với quá trình tự giải quyết của chính mâu thuẫn khách quan đó. - Hai là, cần xác định giai đoạn tồn tại của mâu thuẫn để có cách giải quyết thích hợp. Ở giai đoạn mâu thuẫn đang phát triển, giải quyết mâu thuẫn không phải là thủ tiêu mâu thuẫn, vì mâu thuẫn chỉ có thể mất đi khi nó đã “lên đến cực độ”, “lên đến chóp đỉnh”. Để giải quyết mâu thuẫn ở giai đoạn này cần phải chú ý đến tư tưởng của Lênin về “sự kết hợp các mặt đối lập” (11). Lý luận này được Lênin vận dụng để giải quyết những mâu thuẫn ở thời kỳ kinh tế mới, như kết hợp các thành phần kinh tế đối lập, kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, giữa động viên tư tưởng và khuyến khích vật chất, kết hợp giữa dân chủ và tập trung v.v... Ở giai đoạn chín mùi, mâu thuẫn mới có thể giải quyết bằng cách xóa bỏ. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để xác định trình độ chín mùi của mâu thuẫn xã hội không phỉa là vấn đề lý luận, mà là vấn đề thực tiễn. Ngoài ra, việc giải quyết mâu thuẫn ở giai đoạn này cũng là một quá trình lâu dài. Thí dụ: xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp không thể thực hiện trong một thời gian ngắn, mà phải giải quyết từng khía cạnh của mâu thuẫn (kinh tế, chính trị, tư tưởng) và mâu thuẫn dần dần giảm đi, dịu đi cho đến khi không còn nữa.. - Ba là, cần phân biệt sự giải quyết mâu thuẫn ở hai cấp độ - bản chất và hiện tượng. Mâu thuẫn bản chất là mâu thuẫn có tính tất yếu khách quan, cho nên không thể xóa bỏ mâu thuẫn. Còn mâu thuẫn hiện tượng vừa có khía cạnh khách quan, vừa có khía cạnh ngẫu nhiên, không tất yếu. Trong mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn hiện tượng còn có khía cạnh chủ quan. Do đó, giải quyết mâu thuẫn hiện tượng ở bất kỳ giai đoạn nào cũng có thể thực hiện bằng cách xóa bỏ những yếu tố, những khía cạnh ngẫu nhiên, chủ quan, không tất yếu của mâu thuẫn. - Bốn là, mâu thuẫn biện chứng khách quan chỉ có thể được giải quyết một cách hợp quy luật trong một cơ chế thích hợp. Giải quyết mâu thuẫn là quá trình tự giải quyết, vì mâu thuẫn có yếu tố tự điều chỉnh nội tại và yếu tố điều chỉnh nằm trong hệ thống các mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn trong đời sống xã hội có thể có nhiều yếu tố tham gia điều chỉnh ở những góc độ khác nhau. Thí dụ: điều chỉnh mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội không những có nhà nước, luật pháp, đạo đức mà còn có cả phong tục, tập quán, tôn giáo nữa. Tham gia điều chỉnh những mâu thuẫn của nền kinh tế có thị trường, nhà nước, luật pháp, đạo đức, và có cả các tổ chức Quốc tế và khu vực . Tất cả những yếu tố tự điều chỉnh và điều chỉnh đối với những mâu thuẫn của cùng một bộ phận xã hội hợp thành một cơ chế đều chỉnh thống nhất. Thí dụ: Đảng ta khẳng định “cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”(12). Chỉ trong một cơ chế thích hợp, mâu thuẫn mới tự giải quyết một cách khách quan mỗi khi có sự không phù hợp, mất cân đối giữa các mặt đối lập. Đồng thời, cũng trong cơ chế đó, vai trò chủ quan, tự giác của con người trong việc giải quyết mâu thuẫn được phát huy một cách tối đa, đảm bảo cho nhân tố chủ quan không đi ngược quy luật khách quan. - Năm là, cần quán triệt nguyên tắc nhân đạo trong việc giải quyết mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Giải quyết những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn kinh tế, xã hội, tư tưởng theo tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin là vì con người, vì mục đích tiến tới một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, kkhông còn bạo lực và chiến tranh. Chủ nghĩa cộng sản khoa học theo đúng bản chất của nó là một học thuyết nhân đạo nhất trong lịch sử. Do đó, việc giải quyết những mâu thuẫn trên con đường đi đến chủ nghĩa xã hội bằng những biện pháp vô nhân đạo là trái với bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa nhân đạo của Mác quán xuyến từ thời Mác trẻ đến thời Mác trưởng thành, từ sự phân tích thực chất và nguyên nhân của việc con người bị tha hóa đến lý luận về đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội với tính cách là phương thức để khắc phục sự tha hóa. Chính vì thương dân, thương nước mà Hồ chí minh đến với chủ nghĩa xã hội. Mặc dù là người vô cùng cương quyết đấu tranh, “thà hy sinh tất cả quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”, nhưng Hồ chủ tịch lại là người giàu lòng nhân đạo. Đối với những Pháp bị bắt, người khuyên “phải đối đãi khoan hồng”. Đối với người Việt Nam lầm đường lạc lối, người khuyên “không được tư thù, tư oán”, “lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ”. Tinh thần nhân đạo khoan dung của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh đã trở thành một nguyên tắc cho việc giải quyết tất cả các mâu thuẫn xã hội, không chỉ trong đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc, mà cho cả việc giải quyết những mâu thuẫn kinh tế, xã hội, tư tưởng. Mục đích của việc giải quyết mâu thuẫn là sự đoàn kết, hòa hợp, chứ không phải là sự chia rẽ, sự hận thù. ----------------------------------- (1) G.S. Batisep, Mâu thuẫn với tư cách là phạm trù của lôgic biện chứng, Nxb Đại học, Mátxcơva, 1983, tr. 83 (tiếng Nga). (2) Nguyễn Linh Khiếu, Về mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta trong thời kkỳ quá độ (Trong “Về sự phát triển của xã hội ta hiện nay”, Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi, 1991, tr. 85. (3) Phạm Minh Lăng, Thái độ khoa học đối với các ttrào lưu triết học và xã hội ngoài mácxít, Tạp chí “Triết học”, 1991, số 4, tr.36 (4) C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 694 (5) C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Sđd, tr. 455 (6) ) C. Mác, Ph. Ăngghen, Tuyển tập gồm 6 tập, t. 11, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 384 (7) V.I. Lênin, Toàn tập, t. 29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 152 (8) C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, tr. 173 (9) Theo: Lịch sử phép biện chứng mácxít từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến giai đoạn Lênin, Nxb Tiến Bộ, M., 1986, tr. 242. (10) C. Mác. Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 173. (11) Xem: V.I. Lênin, Toàn tập, t. 42. Nxb Tiến bộ , Mátxcơva, 1977, tr. 259 - 262. (12) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1991, tr. 66.