Tóm tắt. Công tác xã hội là một ngành khoa học và là nghề nghiệp chuyên môn hướng tới
việc nâng cao cuộc sống của con người. Công tác xã hội giúp con người thực hiện được các
chức năng cơ bản một cách tốt nhất trong môi trường của họ, làm hài hòa các mối quan hệ
và giải quyết các căng thẳng cá nhân. Nhân viên Công tác xã hội xuất hiện trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như trường học, bệnh viện, các cơ quan bảo trợ xã hội, cơ sở sức khỏe tâm
thần và các trung tâm của cộng đồng. Cũng giống như vậy, Công tác xã hội công nghiệp
là một lĩnh vực hoạt động của ngành Công tác xã hội, trong đó các nhân viên Công tác xã
hội sử dụng kĩ năng chuyên môn để hỗ trợ trực tiếp các nhà quản lí nhân sự, giải quyết các
vấn đề của công nhân và gián tiếp phát triển tổ chức của công ti. Bài viết nhằm làm sáng tỏ
về sự ra đời, vai trò vị trí của nhân viên công tác xã hội trong doanh nghiệp cũng như vai
trò của nhân viên công tác xã hội trong việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
trong thực tiễn Việt Nam hiện nay.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0037
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 107-113
This paper is available online at
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG DOANH NGHIỆP
VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
Nguyễn Thu Hà và Nguyễn Thị Mai Hương
Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Công tác xã hội là một ngành khoa học và là nghề nghiệp chuyên môn hướng tới
việc nâng cao cuộc sống của con người. Công tác xã hội giúp con người thực hiện được các
chức năng cơ bản một cách tốt nhất trong môi trường của họ, làm hài hòa các mối quan hệ
và giải quyết các căng thẳng cá nhân. Nhân viên Công tác xã hội xuất hiện trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như trường học, bệnh viện, các cơ quan bảo trợ xã hội, cơ sở sức khỏe tâm
thần và các trung tâm của cộng đồng. Cũng giống như vậy, Công tác xã hội công nghiệp
là một lĩnh vực hoạt động của ngành Công tác xã hội, trong đó các nhân viên Công tác xã
hội sử dụng kĩ năng chuyên môn để hỗ trợ trực tiếp các nhà quản lí nhân sự, giải quyết các
vấn đề của công nhân và gián tiếp phát triển tổ chức của công ti. Bài viết nhằm làm sáng tỏ
về sự ra đời, vai trò vị trí của nhân viên công tác xã hội trong doanh nghiệp cũng như vai
trò của nhân viên công tác xã hội trong việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
trong thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Công tác xã hội, công tác xã hội doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp,
nhân viên công tác xã hội
1. Mở đầu
Như nhiều lĩnh vực khác, nhân viên công tác xã hội (CTXH) doanh nghiệp đã có mặt ở rất
nhiều quốc gia và việc đề cập đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã không còn quá xa lạ
với nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập, cùng với việc đổi mới công nghệ
thay đổi theo hướng văn minh hiện đại thì việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp để
phát triển bền vững là công việc không thể thiếu. Hiện nay ở Việt Nam, những hiểu biết về nhân
viên công tác xã hội doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn còn khá mới mẻ
dù đã có một số bài nghiên cứu tập trung vào trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam
dưới góc độ kinh tế và phát triển. Ví dụ như bài Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn
đề lí luận và thực tiễn tại Việt Nam [7] hay đề tài cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế
Trung ương về Tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dung và đối
với môi trường Việt Nam vì sự phát triển bền vững [8]... Tuy nhiên, dưới góc độ công tác xã hội,
chưa có công trình nào trình bày chi tiết về vai trò của nhân viên công tác xã hội tại doanh nghiệp
và mối liên hệ với trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Vì thế, bài viết này muốn làm sáng tỏ về sự
ra đời, vai trò vị trí của nhân viên công tác xã hội trong doanh nghiệp cũng như vai trò của nhân
viên công tác xã hội trong việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thực tiễn Việt
Nam hiện nay.
Ngày nhận bài: 1/3/2016. Ngày nhận đăng: 1/5/2016.
Liên hệ: Nguyễn Thu Hà , e-mail: thuha.sw.hnue@gmail.com
107
Nguyễn Thu Hà và Nguyễn Thị Mai Hương
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp
2.1.1. Sự ra đời của nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp
Các tổ chức công nghiệp không phải là nơi tiên phong thực hiện CTXH chuyên nghiệp. Nó
khác so với các ngành phúc lợi xã hội bởi sản xuất và lợi nhuận là mục đích chính của nó chứ
không phải là vấn đề phúc lợi cho công nhân. Có một thực tế đang ngày càng được nhận ra là con
người bị ảnh hưởng nhiều bởi tổ chức và ngược lại tổ chức hay các công ti cũng sẽ bị ảnh hưởng
bởi yếu tố nhân công. Công nhân và các vấn đề gặp phải của họ có thể được giải quyết tốt hơn nếu
xem xét tới các vấn đề điều kiện làm việc, thu nhập, gia đình và cộng đồng của họ. Nhân viên công
tác xã hội sẽ giúp nâng cao thái độ người lao động vào công việc, kết nối họ với các dịch vụ hỗ trợ
cần thiết và do đó thúc đẩy năng suất và sản lượng của tổ chức công ti trong lĩnh vực này.
Nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp bắt nguồn từ nhân viên công tác xã hội trong lĩnh
vực công nghiệp ở Pháp. Trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914-1918), nam giới ở Pháp ra
chiến trường, còn phụ nữ làm việc trong nhiều nhà máy, xí nghiệp. Điều này có tác động không
nhỏ tới xã hội Pháp bấy giờ. Tỉ lệ sinh đẻ giảm xuống nhanh chóng, an sinh gia đình kém bền
vững do phụ nữ phải tham gia lao động nhiều không có điều kiện chăm sóc gia đình. Để đối phó
với tình hình đó, Pháp học tập Anh thành lập những nhóm người đi giúp đỡ phụ nữ tại các doanh
nghiệp, các nhà máy sản xuất vũ khí, công nghiệp nặng về phúc lợi, an toàn vệ sinh lao động và
các vấn đề khác liên quan. Để những người này được đào tạo chuyên nghiệp hơn nên cuối năm
1916, chính phủ Pháp cho phép thành lập trường đào tạo những người chăm sóc phụ nữ. Từ năm
1917 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945), những nhân viên chăm sóc đó trở thành
nhân viên công tác xã hội trong các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp. Dần dần, họ không
chỉ giúp đỡ giải quyết các vấn đề cá nhân nữ công nhân mà còn nâng cao điều kiện làm việc chung
tại doanh nghiệp hay góp phần thúc đẩy năng suất của nhà máy, xí nghiệp. Yếu tố căn bản của sự
giúp đỡ này là thiết lập một hệ thống các dịch vụ xã hội tại các khu công nghiệp. Sở dĩ tại Pháp
ngành này phát triển là do có sự ủng hộ của nhà nước. Pháp là nước duy nhất ở châu Âu có những
điều luật cụ thể về CTXH công nghiệp. Cụ thể là sự ra đời của đạo luật ngày 28 tháng 7 năm 1942
trong đó bắt buộc có nhân viên công tác xã hội tại 3 loại hình công nghiệp (sản xuất vũ khí, thuộc
da và luyện kim). Với những nhà máy có từ 250 công nhân trở lên thì buộc phải tổ chức một hệ
thống dịch vụ xã hội như y tế, tham vấn, hay bảo hiểm. Ngày 13 tháng 8 năm 1943, đạo luật này
mới thực sự có hiệu lực. Trên thực tế ngưỡng áp dụng dịch vụ xã hội đối với các nhà máy công
nghiệp dao động từ 250 đến 500 công nhân. Ngày 16 tháng 11 năm 1945, chính phủ Pháp cho ra
một đạo luật cho phép chia sẻ nhân viên công tác xã hội giữa các doanh nghiệp và nhà máy do
lượng công nhân ngày càng nhiều mà số nhân viên công tác xã hội được đào tạo không đáp ứng đủ
với nhu cầu đó.
Vai trò và nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội công nghiệp càng ngày càng đa dạng do
sự biến đổi của nền kinh tế, tính chất kinh doanh và đối tượng tác nghiệp là công nhân lao động.
Nó phụ thuộc vào văn hóa từng tổ chức doanh nghiệp cụ thể cũng như nhân cách, kĩ năng, phương
pháp của nhân viên công tác xã hội. Nhân viên CTXH thể hiện vai trò của mình cả ở bên trong và
ngoài các công ti, doanh nghiệp, sử dụng các phương pháp can thiệp cá nhân, nhóm và cộng đồng
nhằm giải quyết khó khăn của công nhân, của công ti, cộng đồng cũng như kết nối nhu cầu lợi ích
của các nhóm đối tượng này với nhau. Nơi làm việc của nhân viên CTXH là trong các phòng quản
lí nhân sự.
108
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
2.1.2. Tiêu chuẩn, đạo đức, vai trò và trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội
doanh nghiệp
Để trở thành một nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp, bên cạnh những kiến thức và kĩ
năng chuyên môn, họ cần mang trong mình những tố chất sau: Muốn thực hiện công bằng và tiến
bộ xã hội; Có kĩ năng giao tiếp tốt; Có sức khỏe tốt; Biết vận dụng kĩ năng can thiệp hiệu quả; Có
kiến thức về tâm lí doanh nghiệp; Có kiến thức về luật lao động; Hiểu biết về trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp; Là chuyên gia trong tham vấn doanh nghiệp.
Đạo đức nghề nghiệp là vấn đề rất quan trọng đối với mỗi nhân viên công tác xã hội. Với
nhân viên CTXH doanh nghiệp cũng như vậy, họ cần chú ý đến những điều sau: Một là, đứng
ngoài vị trí quyền lực trong doanh nghiệp. Hai là, không có trách nhiệm quản lí trực tiếp công
việc lao động sản xuất của công nhân lao động trừ khi vấn đề đó ảnh hưởng tới tiến trình sản xuất
và năng suất sản phẩm; Ba là, luôn duy trì sự bảo mật về chuyên môn. Điều này không có nghĩa
là không thể chia sẻ vấn đề của công nhân với những người quản lí như quản đốc hay giám đốc.
Trong một số trường hợp, nếu việc bảo mật gây nguy hại tới lợi ích của cá nhân công nhân và toàn
công ti, họ cần thiết phải liên hệ với các cấp quản lí khác nhau để mang lại hiệu quả tốt hơn.
Vai trò chính của nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp tiến hành can thiệp giải quyết
những vấn đề gặp phải của cá nhân thông qua những phương pháp chuyên môn trong thực hành
công tác xã hội. Như là sử dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân, nhóm, tham vấn. Nhân viên
công tác xã hội thường xuyên tìm hiểu mối quan hệ giữa các công nhân với nhau, mối quan hệ
giữa công nhân và gia đình, mối quan hệ giữa công việc tại công ti và những khó khăn riêng tư.
Nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp góp phần định hướng công việc của công nhân, giúp họ
nhận thức được những lợi ích cá nhân thông qua việc đóng góp chung cho công ti. Những vấn đề
gặp phải của công nhân đa phần là các vấn đề tâm lí, kinh tế, sự thiếu hiểu biết về các vấn đề xã
hội, tệ nạn xã hội, sức khỏe. . . Nếu nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp có những tìm hiểu và
can thiệp kịp thời, lợi ích của người lao động và doanh nghiệp sẽ được đảm bảo. Cụ thể là:
- Tham gia quản lí nhân viên và can thiệp hiệu quả vào những vấn đề quản lí nhân sự;
- Tham vấn về công việc trong doanh nghiệp;
- Can thiệp những vấn đề nảy sinh trong từng ca làm việc như tranh chấp lao động, xung
đột lao động, bạo hành lao động, lạm dụng quyền lực, lạm dụng tình dục. . . ;
- Giúp đỡ người lao động về mặt y tế và giáo dục;
- Kết nối người lao động với các cơ sở và dịch vụ phúc lợi
- Lập kế hoạch can thiệp gia đình và giáo dục cuộc sống gia đình, hỗ trợ các kĩ năng làm
cha mẹ, điều hòa công việc công ti và gia đình
- Quản lí phản ứng, tìm hiểu tâm lí, thái độ làm việc của người lao động
Ngoài ra, ở phạm vi rộng hơn, nhân viên công tác xã hội doanh nghiệp có thể can thiệp
giúp doanh nghiệp tuân thủ các quy định quốc tế về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR –
Corporation Social Responsibility – đây là cơ chế quản lí tiến trình sản xuất kinh doanh tạo sự tác
động tích cực lên xã hội). Nếu thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình, nhân viên công tác
xã hội doanh nghiệp sẽ góp phần đảm bảo sức khỏe lâu dài cho người lao động, giúp công đoàn
thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Giúp công nhân, lao động yên tâm và hài lòng với
điều kiện lao động và đây chính là quyết định thành công cho doanh nghiệp. Mục tiếp theo tác giả
sẽ trình bày những nội dung để hiểu rõ hơn về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và tình hình thực
hiện của các doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay.
109
Nguyễn Thu Hà và Nguyễn Thị Mai Hương
2.2. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và thực tiễn tại Việt Nam
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây hơn 50
năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề Trách nhiệm xã hội của doanh nhân
(Social Responsibilities of the Businessmen, 1953) nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi người
quản lí tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện
nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến
nay, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Một số người xác định “trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức
phù hợp với các quy phạm, giá trị và kì vọng xã hội đang phổ biến” [5;58 - 64]. Một số người khác
hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp,
đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định” (Archie. B Carroll, 1979
[6]),... Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của Nhóm
phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Theo
đó, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility – CSR) là sự cam kết
của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và
toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”.
Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những chuẩn
mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương
công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng. Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt, như: (1) Bảo vệ môi trường; (2)
Đóng góp cho cộng đồng xã hội; (3) Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; (4) Bảo đảm lợi
ích và an toàn cho người tiêu dùng; (5) Quan hệ tốt với người lao động; (6) Đảm bảo lợi ích cho
cổ đông và người lao đông trong doanh nghiệp. Cụ thể, các doanh nghiệp cam kết sẽ không có bất
cứ hình thức sử dụng lao động cưỡng bức nào như sử dụng lao động tù nhân, ràng buộc lao động
để trừ nợ hoặc những hình thức khác. Không thu nhận lao động trẻ em đặc biệt là lao động dưới
14, 15 hoặc 16 tuổi tùy theo từng nước. Trong môi trường lao động sẽ không tồn tại bất cứ một sự
phân biệt đối xử nào về vấn đề tuyển dụng, tiền lương, phụ cấp, đề bạt, chấm dứt lao động hoặc
nghỉ hưu, dựa trên các yếu tố như giới tính, chủng tộc, tôn giáo, tuổi, người tàn tật, đồng tính luyến
ái, quốc tịch, quan điểm chính trị, nguồn gốc sắc tộc hoặc nguồn gốc xã hội. Người quản lí phải
nhận thức rằng tiền lương là yếu tố quan trọng trong việc áp dụng những nhu cầu tối thiểu của
người lao động. Người sử dụng lao động phải trả tiền lương cơ bản cho người lao động ít nhất bằng
mức lương tối thiểu theo quy định của pháp luật. Ngoài tiền lương trả cho thời gian làm việc bình
thường, người lao động phải được hưởng lương cho thời gian làm việc thêm ngoài giờ và mức trả
thêm phải đúng theo quy định của pháp luật. Môi trường làm việc không có quấy rối và lạm dụng
như đối xử thô bạo (đe dọa, trừng phạt hay đánh đập); xúc phạm bằng lời nói (chửi bới, đe dọa,
hoặc dùng những từ ngữ xúc phạm đến danh dự người khác); đàn áp tinh thần; quấy rối tình dục
hoặc các hình thức quấy rối khác (ngăn cản không cho đi uống nước, đi vệ sinh hoặc xuống phòng
y tế cũng như các quyền cơ bản khác; ngăn cản một cách vô lí các quyền tự do của công nhân lao
động ngoài giờ làm việc. Người sử dụng lao động phải công nhận và tôn trọng quyền tự do hiệp
hội và thỏa thuận tập thể của người lao động.Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã
hội thì việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát
triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung.
Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã hội không
còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình sẽ đạt được
một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Quy tắc ứng xử (Code of Conduct hay gọi tắt là
110
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
COC). Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội thì
lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà doanh nghiệp thu
được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương
hiệu, giảm tỉ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới.
Chúng ta có thể dẫn ra đây một số ví dụ về lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp:
Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị mới.Chi phí sản xuất
và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lí nhân sự. Một hệ thống quản lí nhân
sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí và tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ
lương, thưởng hợp lí, môi trường lao động sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo
hiểm y tế và giáo dục đều góp phần giảm tỉ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển
dụng và đào tạo nhân viên mới. Tất cả cái đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao
động.
Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh nghiệp đều
đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương có thể tạo ra
một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn và nhờ đó tăng doanh thu.
Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín của
công ti. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương hiệu và uy tín đáng kể.
Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tư và người
lao động.
Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn lao động
giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Có một
thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao không nhiều.
Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả
năng của họ trong hoạt động quản lí, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút
và giữ được nhân viên có chuyên môn tốt là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo
cho nhân viên cơ hội đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng
thu hút và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn đề mới
mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn
ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những
yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp
cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang
lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận
rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm
túc trách nhiệm xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo
cáo tài chính, không bảo đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý
gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương
bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng không còn là hiện tượng
hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội.
Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện trách
nhiệm xã hội của nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người cho rằng, trách nhiệm xã hội của
111
Nguyễn Thu Hà và Nguyễn Thị Mai Hương
doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được luật hóa ở tất cả các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp
lớn có thị trường xuất khẩu, do yêu cầu của khách hàng nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã
hội, còn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, do khó khăn về tài chính và thiếu ràng buộc về pháp
lí nên nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “các khoản đóng góp từ thiện”. Một số
người khác cho rằng, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm
giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích trước mắt, do đó các doanh
nghiệp vừa và nhỏ không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội. Nói tóm lại, việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Sở dĩ như vậy trước hết là do
sự hiểu biết chưa đầy đủ của doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội; trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
chỉ đơn thuầ