Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay

TÓM TẮT Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người lãnh tụ gương mẫu, tận tuỵ, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà những tư tưởng của Người đã để lại cho nhân dân ta là vô cùng quý giá. Do đó, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người để xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục mẫu mực,“vừa hồng vừa chuyên” góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, nhằm kiến thiết và xây dựng đất nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37 TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÍ GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY TRẦN VĂN KHUYÊN(*) TÓM TẮT Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người lãnh tụ gương mẫu, tận tuỵ, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà những tư tưởng của Người đã để lại cho nhân dân ta là vô cùng quý giá. Do đó, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người để xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục mẫu mực,“vừa hồng vừa chuyên” góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, nhằm kiến thiết và xây dựng đất nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Từ khoá: tư tưởng, quản lí cán bộ, quản lí giáo dục, đạo đức, đào tạo ABSTRACT In his lifetime, President Ho Chi Minh not only was an exemplary leader who had devoted his heart and soul to the service of the country and people but also left them his valuable ideas. Therefore, nowadays it is a practical matter to study and follow the example of his moral life in order to build up the staff of educational administrators, who are exemplary, “red and expert”, for the promotion of the educational cause and for the construction of the country. Key words: ideas, monitor cadres, educational administrators, moral, training 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông chúng ta đã ý thức rõ về việc dùng người là quốc sách. Điều đó có ý nghĩa và tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Chẳng hạn, trên văn bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất 1442 tại Quốc Tử Giám, dưới triều hậu Lê của Tiến sĩ Thân Nhân Trung ghi: “...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, (*) CN, Quận uỷ Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền văn hoá truyền thống, và tinh hoa của nhân loại từ Đông sang Tây, đã dày công đào tạo, xây dựng và huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với Tổ quốc, dân tộc, kiên định và tận tuỵ với lí tưởng và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ qua các thời kì. Người đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”1, đó là một trong những quan điểm tư tưởng thể hiện sự quan tâm, xây dựng con người, tổ chức cán bộ và huấn luyện sử dụng cán bộ lâu dài cho quốc gia và dân tộc. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh 38 về công tác cán bộ bao gồm: Thứ nhất: Hồ Chí Minh xác định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”2. Công tác cán bộ là công tác cơ bản của các công tác cơ bản. Cái gốc căn bản của người cán bộ từ cấp cao nhất trở xuống là phải làm thế nào cho dân tin, từ chỗ dân tin đến chỗ dân phục và từ chỗ dân phục đến chỗ dân yêu. Người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lí mà dân không tin, không phục, không yêu là người không có phẩm chất lãnh đạo. Thứ hai: Muốn cho cái gốc được vững chắc thì phải xác định vấn đề đào tạo, huấn luyện cán bộ làm sao cho đúng, cho tốt. Muốn đào tạo tốt, thì phải biết phát hiện người có thể làm cán bộ, từ đó mà đưa họ đi đào tạo tại các trường, lớp chính quy, hoặc có thể bổ túc kiến thức thường xuyên cho cán bộ. Công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí đã được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm, vì đây là "cái rễ sâu nhất" của "cái gốc" đào tạo cán bộ. Trong đào tạo cán bộ, Người yêu cầu phải hướng cho cán bộ vào một nội dung chính trị đúng đắn và nội dung chuyên môn sâu sắc. Thứ ba: Sau khi đào tạo, phải căn cứ vào kết quả đào tạo, năng lực, sở trường, sở đoản của mỗi người mà bố trí, sử dụng cho đúng, cho tốt. Sử dụng cán bộ đang trở thành vấn đề trọng yếu và cũng là vấn đề nổi cộm của công tác tổ chức hiện nay. Sử dụng cán bộ đồng nghĩa với việc bố trí cán bộ. Phương hướng sử dụng cán bộ của Hồ Chí Minh là có "điểm", có "diện". "Diện" là tất cả các nhân tài, còn "điểm" là chú ý đến cán bộ xuất thân từ thành phần công nhân, nông dân, trí thức. Phương pháp sử dụng cán bộ của Hồ Chí Minh được thể hiện trong "Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ", ngày 1-3-1947. Người nói rằng, dùng người không được hẹp hòi, vì tư tưởng hẹp hòi, hành động cũng hẹp hòi, gây nên tình trạng ít bạn, nhiều thù. "Người mà hẹp hòi ít kẻ giúp. Đoàn thể mà hẹp hòi không thể phát triển”3. Người tổng kết: "Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”4. Người thợ khéo ở đây là cán bộ lãnh đạo, quản lí. Phương pháp "nâng cao" mà Hồ Chí Minh đặt ra cho công tác cán bộ là phương pháp bổ túc thêm trong quá trình công tác của người cán bộ. Muốn vậy, người phụ trách phải biết tìm cách cho người được giao nhiệm vụ "học thêm lí luận và cách làm việc”5. Mục đích của phương pháp này là làm cho tư tưởng, năng lực của người cán bộ ngày càng tiến bộ. Đây là phương pháp rất cần thiết trong việc bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ. "Kiểm tra" cũng là phương pháp tốt để quản lí cán bộ. Hồ Chí Minh coi vấn đề kiểm tra cán bộ là để tra xét cẩn thận, đúng, sai trong quá trình thực thi công việc. Sử dụng cán bộ mà chủ tịch Hồ Chí Minh cho là "dùng người" vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, nhạy cảm. Nó biểu hiện tầm nhìn xa, trông rộng, tấm lòng độ lượng, biết rõ tài, đức của mỗi người mà dùng cho đúng. Thứ tư: Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh chú trọng đến tiêu chuẩn cán bộ là "tài và đức", "hồng và chuyên". Đó là hai tiêu chuẩn cơ bản mà Người yêu cầu mỗi một cán bộ cần phải có. Tài và đức là mối quan hệ hữu cơ mà tùy theo tính chất của công việc mà định lượng và định tính cho đúng. Người có lúc nói "tài và đức", nhưng lại có lúc nói "đức và tài". Điều đó phản ánh tư duy linh hoạt, cơ động mỗi khi bàn về tài và đức, đức và tài, nhưng cốt lõi vẫn là trọng cái đức. 39 Thứ năm: Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng của người cán bộ. Vấn đề này đã được Hồ Chí Minh nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần trong các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người về vấn đề cán bộ, trong quá trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đạo đức ở đây được Người xác định là đạo đức cách mạng, mà đã nói đến cách mạng tức là biến cái cũ thành cái mới, sáng tạo. Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là toàn bộ những nguyên tắc sống và những quy phạm đạo đức phù hợp với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Đó là sự trung thành với sự nghiệp cách mạng, bằng sức của mình, làm tăng thêm của cải cho xã hội; thực hiện tốt nghĩa vụ công dân đối với xã hội, có tinh thần tập thể... Những quy phạm đạo đức cách mạng không chỉ hạn chế trong khuôn khổ hành vi của con người, mà còn là những nhân tố có hiệu lực để cải tạo xã hội, ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình phát triển xã hội. Thứ sáu: Xây dựng tư cách, nhân cách, tác phong của người cán bộ. Tần số ngôn ngữ này xuất hiện rất nhiều lần trong các tác phẩm, bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Với Người, tư cách là sự thể hiện cách đối xử có văn hoá của người cán bộ với nhân dân, đồng nghiệp, đồng chí của mình; tư cách của người cán bộ là sự thể hiện sự đứng đắn của người cán bộ đó. Nhân cách chính là tư cách của con người và của người cán bộ; là sự tôn trọng lẫn nhau của mỗi người cán bộ; nhân cách còn biểu hiện như là phương pháp để cải tạo, rèn luyện của mỗi người cán bộ. Tác phong là sự thể hiện ở cách làm việc ngăn nắp và nếp sinh hoạt hằng ngày, hằng giờ và phẩm chất công tác của người cán bộ. Thứ bảy: Trong hoạt động, người cán bộ phải gắn một cách nhuần nhuyễn, hữu cơ giữa lí luận và thực tiễn. Đây là một trong những vấn đề được Hồ Chí Minh rất quan tâm. Người cảnh báo cái bệnh mà cán bộ thường mắc phải là lí luận bóc tách khỏi thực tiễn trở thành lí luận suông. Người yêu cầu cán bộ phải biết tổng kết thực tiễn và qua tổng kết thực tiễn khái quát thành lí luận. Người cán bộ nào làm được như vậy là người cán bộ có trình độ lãnh đạo, quản lí tốt. Người nhận định trong đội ngũ cán bộ không thiếu những tấm gương dũng cảm trong chiến đấu và tận tuỵ với công việc. Hiềm một nỗi, có nhiều cán bộ rất thiếu kiến thức lí luận, cho nên trong công vụ, họ phải mò mẫm và luôn luôn bị vấp váp. Người cho rằng, cán bộ có thể tránh được bế tắc, sai lầm cùng với những thất bại đau đớn, nếu người cán bộ đó có những kiến thức tối cần thiết về lí luận soi đường. Thứ tám: Vấn đề tự phê bình và phê bình của người cán bộ đã được Hồ Chí Minh nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần trong các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người. Nhiều lần, Người đặt vấn đề phê bình lên trước tự phê bình, nhưng sau đó Người lại nói tự phê bình trước. "Tiên trách kỉ, hậu trách nhân". Đây là vũ khí sắc bén để cải tạo, rèn luyện cán bộ trong mọi hoàn cảnh, nhưng khi vận dụng vào thực tiễn sẽ rất khó. Hiện nay, có một thực tế rất đáng lo ngại là trong đội ngũ cán bộ lan tràn tình trạng "dĩ hòa vi quý", chủ yếu là ca ngợi thành tích của nhau, mà ngại nói ra sự thật, dần dà biến thành những phần tử cơ hội "hai mặt". Hiện nay, hiếm thấy người lãnh đạo, quản lí, hoặc cán bộ chuyên môn nào dũng cảm, tự cho mình năng lực kém và xin rút khỏi chiếc ghế đang ngồi để nhường cho người khác. Xét cho cùng, đây vẫn là lợi ích cá nhân. Vấn đề tự phê bình 40 và phê bình của người cán bộ là niềm mong muốn suốt đời của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, niềm mong muốn suốt đời ấy chỉ có thể trở thành hiện thực khi trình độ nhận thức của cán bộ được nâng cao ở tầm trí tuệ, bản lĩnh. Thứ chín: Giúp đỡ cán bộ là vấn đề mà Hồ Chí Minh đã đề cập trong một số tác phẩm, bài viết, bài nói của mình. "Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở"6. Mục đích của giúp đỡ là cải tạo. Qua cải tạo, Hồ Chí Minh muốn giúp đỡ cán bộ về mặt tinh thần, tư tưởng. Trong cải tạo, Người cho rằng, thuyết phục vẫn là cách tốt nhất để cảm hoá cán bộ. Muốn thành công trong cách này, đòi hỏi người lãnh đạo, quản lí phải hết sức kiên nhẫn, bình tĩnh, làm từng bước, chắc chắn. Phải hết sức thông minh, tỉnh táo khi đánh giá một sai lầm. Người nói: "Không phải một sai lầm to lớn, mà đã vội cho họ là "cơ hội chủ nghĩa", đã "cảnh cáo", đã "tạm khai trừ". Những cách quá đáng như thế đều không đúng”7. Còn giúp đỡ là Người quan tâm đến cả yếu tố vật chất và tinh thần của người cán bộ. Người nói: "Phải cho họ điều kiện, sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau ốm phải có thuốc thang. Tùy theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan hệ với tinh thần của cán bộ và sự thân ái, đoàn kết trong Đảng"8. Người còn nói: Cần giúp đỡ cán bộ về học tập và công tác, quan tâm hơn nữa đến tâm tư, nguyện vọng của họ. Đó là sự thể hiện tấm lòng chân thành, thiện chí với nhau, là đầu mối dẫn đến đoàn kết lành mạnh. Thứ mười: Cán bộ tự rèn luyện, tự phấn đấu vươn lên; thường xuyên biết rút kinh nghiệm qua thực tiễn công tác. Tự rèn luyện, tự phấn đấu vươn lên trong mọi hoàn cảnh, không trông chờ vào tổ chức, là một biểu hiện của phẩm chất cán bộ. Tự rèn luyện, tự phấn đấu vươn lên trong công tác, học tập, nghiên cứu của người cán bộ phải được thể hiện ở chất lượng công tác, chất lượng học tập, chất lượng nghiên cứu sao cho có hiệu quả. Tinh thần gương mẫu, có ý thức tổ chức, kỉ luật cao là một biểu hiện sinh động của tinh thần tự rèn luyện, tự phấn đấu của người cán bộ. Muốn làm được điều đó, người cán bộ phải thường xuyên biết rút kinh nghiệm ngay trong quá trình công tác, học tập, nghiên cứu và trong sinh hoạt đời thường. 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÍ GIÁO DỤC HIỆN NAY 2.1. Thực trạng công tác quản lí của đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục hiện nay Một số tồn đọng khá lâu về công tác quản lí giáo dục bắt đầu từ chỗ tuyển dụng, sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục không đúng vị trí. Do hiểu không thấu đáo về đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước, vận dụng một cách cứng nhắc tiêu chuẩn đề ra theo luật định mà không ít địa phương khi bố trí cán bộ quản lí giáo dục để xảy ra tình trạng “hồng” mà không “chuyên”. Lại có kiểu bố trí cán bộ quản lí giáo dục theo kiểu ê kíp, do mối quan hệ họ hàng, thân thích hơn là căn cứ vào năng lực, phẩm chất bản thân. Cả hai kiểu này đều dẫn đến những hạn chế, những bất cập trong quản lí như quan liêu, cửa quyền, hách dịch, bè phái, chậm tiến bộ và không chịu đổi mới. Từ đây, phát sinh hiện tượng bằng mặt không bằng lòng, mất đoàn kết nội bộ, làm giảm sút chất lượng giáo dục. Nhiều người vẫn nhầm lẫn, đánh đồng giữa khái niệm lãnh đạo (người có quyền cao nhất, có chức năng chỉ đạo) với khái niệm 41 cán bộ quản lí giáo dục (người điều hành, tổ chức). Người lãnh đạo có thể đồng thời kiêm chức năng quản lí, nhưng người cán bộ quản lí chưa chắc đã có khả năng lãnh đạo. Phân biệt được điều này để có sự rạch ròi khi đánh giá hiệu quả công tác quản lí ở cơ sở. Việc đổi mới phương thức quản lí trong giáo dục ở cơ sở hiện nay chưa kịp thời thể hiện ở chỗ: Sự phân cấp không triệt để, mới chỉ diễn ra trên đối thoại, thông tin, và một vài văn bản nhỏ, lẻ nên dẫn tới nhà trường thiếu quyền chủ động. Một khi cán bộ quản lí giáo dục cấp phòng, cấp trường không đủ năng lực tham mưu với cấp lãnh đạo địa phương, hoặc là cấp lãnh đạo địa phương không “mặn mòi” với giáo dục thì khó có được sự đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất, các điều kiện để hoạt động. Hiện tượng “an phận thủ thường” cũng khá phổ biến, rơi vào những cán bộ quản lí thiếu năng lực, không mạnh dạn đổi mới cách nghĩ, cách làm, chỉ hành xử theo kiểu hành chính công cho hết nhiệm kì. Một bộ phận khác khi còn là giáo viên thì năng nổ phấn đấu, khi vào cương vị cán bộ quản lí giáo dục khoảng vài năm thì lại lười học tập, bồi dưỡng chuyên môn nên lạc hậu với cái mới. Khi cán bộ quản lí giáo dục mắc khuyết điểm, sai phạm thì cũng ít bị thôi chức, nghỉ việc nên làm mất niềm tin trong đội ngũ. 2.2. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay theo quan điểm về công tác cán bộ của chủ tịch Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là kết tinh truyền thống dùng người của ông cha ta trong lịch sử, là đỉnh cao của “nghệ thuật” hay “phương sách” dùng người - bí quyết thành công của sự nghiệp Cách mạng. Đó là tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học. Ngày nay, những tư tưởng đó đã trở thành những bài học, những nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Nhờ đó mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được hiền tài, thu hút được nhân sĩ yêu nước, thu hút được tất cả các lực lượng đoàn kết xung quanh Đảng, đưa đến thành công của cách mạng Tháng Tám vĩ đại, thắng lợi Điện Biên chấn động địa cầu, đại thắng Mùa xuân 1975 hào hùng và cả nước vững bước đi lên CNXH. Vấn đề quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục có vai trò quan trọng trong việc “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải thực hiện đồng thời các giải pháp sau đây: 2.2.1. Đẩy mạnh giáo dục chính trị, đạo đức, lí tưởng cách mạng thường xuyên cho người cán bộ quản lí giáo dục. Vì người cán bộ quản lí giáo dục hơn ai hết phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng của người quản lí giáo dục là xây dựng tinh thần yêu nước, nhận thức đúng đắn và kiên định thực hiện lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lí tưởng; không nói trái, làm sai với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Xây dựng và nêu cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân, phụ huynh và học sinh bằng những việc làm thiết thực hàng ngày; chống thói quan liêu, mệnh lệnh hách dịch, xa rời dân. Đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục hơn ai hết phải nêu cao tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, biết coi trọng chất lượng, hiệu quả công việc; chống lười biếng, lãng phí, phô trương hình thức Có như vậy mới xây dựng được một đội ngũ 42 cán bộ quản lí giáo dục có đủ tư cách đạo đức cách mạng, biết thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc; luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình; đáp ứng việc giải quyết kịp thời các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phụ huynh và học sinh. 2.2.2. Trên cơ sở hiểu và đánh giá đúng cán bộ quản lí giáo dục để trang bị và tạo dựng môi trường cần thiết cho đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục làm việc hiệu quả. Cái gốc của người cán bộ nói chung và cán bộ quản lí giáo dục nói riêng là từ nhân dân, có nhiệm vụ quản lí và phục vụ nhân dân, phụ huynh và học sinh. Người cán bộ quản lí giáo dục là đầy tớ nhân dân trong thời kì đổi mới nên cũng sẽ có nhiều vấn đề phát sinh so với người cán bộ thời chiến, đó là đối tượng họ quản lí, phục vụ, đó là sự chi phối của cơ chế thị trường, bối cảnh toàn cầu hoá Vì vậy, phải hiểu được người cán bộ quản lí giáo dục có gì, cần gì để đánh giá đúng và sử dụng hiệu quả. Một người cán bộ quản lí giáo dục không thể tốt khi đạo đức, và năng lực họ kém so với nhân dân, phụ huynh và học sinh – đối tượng mà họ phục vụ. Công việc người quản lí giáo dục đảm nhiệm là công vụ nên tất yếu không cho phép nảy sinh tư lợi trong quá trình họ làm việc. Xuất phát từ những vấn đề đó, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lí giáo dục, giúp họ có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải được coi trọng hơn, chính sách và chế độ đối với họ cũng phải được từng bước nâng lên theo yêu cầu của xã hội. Đây cũng sẽ là vấn đề quan trọng để người cán bộ quản lí giáo dục yên tâm công tác, phát huy hết khả năng và ra sức cống hiến cho đất nước. 2.2.3. Xây dựng cơ chế ràng buộc để người cán bộ quản lí giáo dục gần dân, phụ huynh và học sinh, lắng nghe, hiểu và hành động phục vụ nhân dân, phụ huynh và học sinh Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, mọi hoạt động cách mạng phải lấy dân làm gốc. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay. Dễ trăm lần không dân cũng chịu, Khó vạn lần dân liệu cũng xong. So với nhân dân, đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục chỉ chiếm một bộ phận nhỏ, do đó nếu không có nhân dân giúp sức thì sẽ không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Đồng thời, xa rời quần chúng nhân dân sẽ dẫn đến làm cho người cán bộ quản lí giáo dục mắc bệnh hẹp hòi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, nhiều thứ bệnh như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hoá,... đều đo bệnh hẹp hòi mà ra. Do vậy, cần thiết phải tạo ra cơ chế để người cán bộ quản lí giáo dục thường xuyên tiếp xúc và liên lạc với quần chúng nhân dân, thông qua các hình thức như gắn kết việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục với các hoạt động và phong trào của nhân d