Tóm tắt. Trong thời đại văn hoá đại chúng bùng nổ, các phương tiện truyền thông phát triển
với tốc độ cao và phổ cập rộng rãi khiến vấn đề văn học đại chúng và sự tương tác giữa văn
học đại chúng - văn học đặc tuyển được đặc biệt quan tâm. Bài viết bàn về thuật ngữ “văn
học đại chúng” trong mối quan hệ với “văn học đặc tuyển”, phân biệt văn học đại chúng và
văn học đặc tuyển trên ba tiêu chí: ý thức về cách tân nghệ thuật, ý thức về vai trò của nhà văn
và quan niệm về chức năng của văn học. Bài viết cũng làm sáng tỏ sự tương tác giữa văn học
đại chúng và văn học đặc tuyển trên nền bối cảnh lịch sử văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến nay.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn học đại chúng, văn học đặc tuyển, đặc trưng và tương tác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0021
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 3-8
This paper is available online at
VĂN HỌC ĐẠI CHÚNG, VĂN HỌC ĐẶC TUYỂN, ĐẶC TRƯNG VÀ TƯƠNG TÁC
Nguyễn Thị Minh Thương1và Lê Hải Anh2
1Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt. Trong thời đại văn hoá đại chúng bùng nổ, các phương tiện truyền thông phát triển
với tốc độ cao và phổ cập rộng rãi khiến vấn đề văn học đại chúng và sự tương tác giữa văn
học đại chúng - văn học đặc tuyển được đặc biệt quan tâm. Bài viết bàn về thuật ngữ “văn
học đại chúng” trong mối quan hệ với “văn học đặc tuyển”, phân biệt văn học đại chúng và
văn học đặc tuyển trên ba tiêu chí: ý thức về cách tân nghệ thuật, ý thức về vai trò của nhà văn
và quan niệm về chức năng của văn học. Bài viết cũng làm sáng tỏ sự tương tác giữa văn học
đại chúng và văn học đặc tuyển trên nền bối cảnh lịch sử văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến nay.
Từ khóa: Văn học đại chúng, văn học đặc tuyển, văn học Việt Nam, đặc trưng, tương tác.
1. Mở đầu
Trong thời đại hiện nay, các phương tiện truyền thông đại chúng phát triển với tốc độ cao,
internet, truyền hình cùng các phương tiện nghe nhìn khác phổ cập rộng rãi khiến văn hóa đại
chúng bùng nổ, dần dần chiếm một không gian xã hội rộng lớn, lấn lướt không gian văn hóa của
các lĩnh vực khác. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu văn học không thể không chú ý đến vấn đề “văn
học đại chúng”. Để làm rõ nội hàm “văn học đại chúng” như một loại hình văn học thì tất yếu cần
phải đưa ra một loại hình văn học khác tương ứng với nó, đó là “văn học đặc tuyển”.
Cho đến thời điểm hiện tại, văn học đại chúng đã bước đầu được nghiên cứu như một thể loại
[3, 6, 7].Vậy văn học đại chúng và văn học đặc tuyển có diện mạo đặc trưng như thế nào? Tương
tác giữa chúng ra sao, đặc biệt là sự vận động của tương tác này trong lịch sử như thế nào? Đây là
một loạt những vấn đề tương đối nan giải, người viết chỉ hi vọng bước đầu xác lập một định
hướng lí thuyết nhằm giải quyết thực tiễn văn học đang diễn ra sôi động.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Về thuật ngữ “văn học đại chúng” – “văn học đặc tuyển”
Thực ra, không phải đến thời điểm gần đây việc dùng chữ “đại chúng” như một thuật ngữ
trong văn học mới được đề cập. Trong Đề cương văn hóa 1943, Đảng ta đã chủ trương “dân tộc,
đại chúng hóa văn học”, theo đó, “đại chúng hóa văn học” đã trở thành cương lĩnh chỉ đường cho
hoạt động văn học nghệ thuật của nước ta trong suốt một thời gian dài. Nhưng trong thời gian đó,
chữ “đại chúng” được gắn kết với “văn học” không phải là dùng để chỉ một loại hình văn học, mà
là một khái niệm thiên về “tính chất”, “phẩm chất” của sáng tác, chỉ khi văn hóa đại chúng bùng
Ngày nhận bài: 19/3/2018. Ngày sửa bài: 19/3/2017. Ngày nhận đăng: 1/4/2018.
Tác giả liên hệ: Lê Hải Anh. Địa chỉ e-mail: lehaianhsphn@gmail.com
Nguyễn Thị Minh Thương và Lê Hải Anh
4
nổ thì “văn học đại chúng” mới thực sự xuất hiện như một khái niệm loại hình văn học. Trên thực
tế, việc khu biệt giữa văn học đại chúng và văn học đặc tuyển là vô cùng khó khăn. Dựa vào tiêu
chí nào để khẳng định những tác phẩm này là văn học đại chúng, tác phẩm khác là văn học đặc
tuyển?
Ở nước ta, khi nghiên cứu về văn học trung đại, giới nghiên cứu thường sử dụng phạm trù
“thanh – tục” để đánh giá phẩm chất của sáng tác văn học và các hiện tượng văn hóa, đồng thời
cũng sử dụng nó để đánh giá phẩm chất của tầng lớp trí thức phong kiến. Từ hạt nhân “thanh –
tục” như một cặp phạm trù mĩ học, mới xuất hiện khái niệm “văn học cao nhã” và “văn học thông
tục”. Như vậy, khái niệm “văn học cao nhã” và “văn học thông tục” được xây dựng trên hạt nhân
“thanh – tục” – cặp phạm trù mĩ học thiên về phẩm chất của hiện tượng. Rõ ràng, sự khu biệt giữa
hai bộ phận văn học này được căn cứ trên vấn đề phẩm chất của sáng tác. Tiếp nữa, trong lịch sử
nghiên cứu còn xuất hiện cặp thuật ngữ “văn học bình dân” và “văn học quý tộc (thượng lưu)”.
Hai thuật ngữ này lại được xây dựng trên hạt nhân “bình dân”, “thượng lưu” - hai từ dùng để chỉ
giai tầng xã hội và bao hàm đặc điểm của giai tầng đó. Khi dùng khái niệm như vậy, người sử
dụng đã dùng chính đặc điểm giai tầng xã hội của người sáng tác và người tiếp nhận để khu biệt
hai bộ phận văn học. Thông thường, trong thời trung đại, thuật ngữ “văn học bình dân” là để chỉ
những sáng tác dân gian, còn “văn học quý tộc (thượng lưu)” dùng để chỉ những sáng tác của giai
cấp phong kiến quý tộc, của văn nhân có học. Ở Việt Nam khi nghiên cứu về văn học trung đại,
cặp thuật ngữ được sử dụng thường xuyên nhất là “văn học bác học” và “văn học bình dân/ dân
gian”. Tuy nhiên, trong thời hiện đại, mặc dù từ “bình dân” vẫn được sử dụng để nói về một bộ
phận văn học, nhưng dường như không có từ tương ứng để chỉ một bộ phận văn học “phi bình
dân” Nhìn chung, cách tạo lập thuật ngữ như vậy chủ yếu là dựa trên sự đối ứng giữa cách từ
ngữ như thanh – tục, quý tộc – bình dân Để tránh sự máy móc giản đơn trong việc xác lập thuật
ngữ văn học thì cần phải vượt lên trên cả khung ngữ nghĩa của từ vựng, cần phải xuất phát từ
chỉnh thể hiện tượng văn học vốn phong phú phức tạp, tham chiếu ở tầm vĩ mô các hiện tượng văn
hóa và lịch sử văn hóa. Có như vậy thì mới có thể tiến hành mệnh danh và phân biệt một cách
khoa học, nghiêm túc về vấn đề văn học đại chúng và văn học phi đại chúng.
Trong nghiên cứu văn hóa phương tây từng xuất hiện cặp phạm trù “elite culture” và
“popular culture”, thường được lí giải thành văn hóa của phần tử trí thức và văn hóa dân gian. Sự
phân biệt như vậy đã tương đối thành công bởi nó đã phân loại được hiện tượng văn hóa dựa trên
mô hình văn hóa, truyền thống văn hóa và chủ thể văn hóa. Văn học là một bộ phận quan trọng
của văn hóa, vì thế, cách định danh cho hiện tượng văn hóa có thể được sử dụng làm gợi ý để định
danh hiện tượng văn học. Vì thế thuật ngữ “Elite literature” và “popular literature” có thể dịch
thành “văn học đặc tuyển” và “văn học đại chúng”. Cách định danh này đã vượt qua phạm vi chủ
thể văn hóa để lí giải từ góc độ tính chất văn hóa, tức là nó không chỉ chỉ chủ thể sáng tác mà còn
nói được tính chất của hiện tượng văn hóa. Văn học đặc tuyển sẽ không phải dùng để chỉ phần tử
trí thức với tư cách là chủ thể văn học đó, cũng không phải để chỉ bộ phận văn học của phần tử tri
thức, mà để chỉ tư duy thuộc loại hình đặc tuyển mà nhà văn có, chỉ sự vận hành và sáng tác văn
học với lập trường đặc tuyển hóa. Bên cạnh đó, văn học đại chúng cũng không phải thuật ngữ
dùng để chỉ chủ thể văn học, mà là để chỉ tư duy thuộc loại hình đại chúng với lập trường đại
chúng hóa.
2.2. Phân biệt văn học đặc tuyển và văn học đại chúng
Để làm rõ ranh giới giữa văn học đại chúng và văn học đặc tuyển trên phương diện lý thuyết
là điều không đơn giản. Ở đây, chúng tôi sẽ căn cứ trên một số tiêu chí để tiến hành khu biệt như:
Ý thức về cách tân nghệ thuật; Ý thức về vai trò xã hội của nhà văn; Chức năng của văn học. Tất
cả những phương diện đó thuộc về một kiểu tư duy nghệ thuật, nó sẽ chi phối toàn bộ quá trình
sáng tác và sự vận hành của một bộ phận văn học.
Văn học đại chúng, văn học đặc tuyển đặc trưng và tương tác
5
2.2.1. Tiên phong và phổ cập trong ý thức cách tân nghệ thuật
Văn học đặc tuyển chú trọng sự sáng tạo trong nghệ thuật, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức
những cách tân nghệ thuật trong bộ phận người đọc có trình độ nghệ thuật cao và giàu kinh
nghiệm nghệ thuật. Chính vì thế, văn học đặc tuyển luôn tìm tòi cách tân về ngôn từ, thể loại, thủ
pháp nghệ thuật và tìm cách chống lại sự phổ cập hóa, công thức hóa của hình thức. Thông
thường, khi một hình thức nghệ thuật mới được sáng tạo, so với đương thời, nó là hình thức mang
tính tiên phong. Nhưng dần dần, những hình thức này được một nhà văn hoặc nhiều nhà văn sử
dụng nhiều lần, nó sẽ trở thành công thức hóa, xơ cứng, và mất sức hấp dẫn. Điều này đã được các
nhà chủ nghĩa hình thức khẳng định khi đưa ra lí thuyết “lạ hóa”. Các nhà văn đặc tuyển cho rằng
cách tân nghệ thuật mới là giá trị đích thực của sáng tác, là một trong những mục đích mà họ theo
đuổi. Còn văn học đại chúng mặc dù không hoàn toàn phủ nhận việc theo đuổi sáng tạo hình thức
nghệ thuật mới mẻ, nhưng họ không cổ vũ cho loại tư tưởng này. Bởi văn học đại chúng hướng tới
đối tượng có trình độ nghệ thuật thông thường với những nhu cầu mang tính thế tục, cho nên, họ
sợ những cách tân hình thức mang tính tiên phong sẽ ảnh hưởng đến sự tiếp nhận rộng rãi của
người đọc, gây khó khăn cho người đọc thông thường. Vì thế, thay bằng việc theo đuổi những
cách tân hình thức nghệ thuật mang tính tiên phong, khai sáng, thì văn học đại chúng chú trọng sự
phong phú, xây dựng các chi tiết nghệ thuật gây ấn tượng mạnh.
2.2.2. Nghiêm túc và trò chơi trong ý thức về vai trò của nhà văn
Các nhà văn đặc tuyển có xu hướng quan tâm đến xã hội, họ tự cho rằng giá trị và tính nhân
văn cần phải có của một nhà văn là trách nhiệm đối với xã hội và sứ mệnh lịch sử cao cả. Trong
văn học trung đại, dễ dàng tìm thấy những quan niệm về vai trò, trách nhiệm xã hội của nhà văn,
như ý thức tự nhiệm, văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí, như quan niệm của Nguyễn Trãi: Văn chương
chép lấy đôi câu thánh/ Sự nghiệp tu gìn phải đạo trung/ Trừ độc trừ tham, trừ bạo ngược/ Có
nhân, có trí, có anh hùng (Bảo kính cảnh giới, bài 5). Thời hiện đại, những nhà văn có ý thức
chính trị mạnh mẽ cũng thường đặt mục tiêu sáng tác của mình là hướng tới phục vụ xã hội, cải
tạo xã hội: Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, Một ngòi lông mà trống mà chiêng (Phan Bội Châu),
Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong (Hồ Chí Minh). Ý thức nghiêm
túc về vai trò sứ mệnh của mình đã trở thành truyền thống sâu đậm và được phát huy mạnh mẽ.
Trong khi đó, các nhà văn của văn học đại chúng lại quan tâm đến thị trường đọc tác phẩm
của mình, họ không thực sự đặt ra vấn đề trách nhiệm xã hội hay sứ mệnh lịch sử. Vì thế, họ sáng
tác đương đối tự do, không chịu áp lực của trách nhiệm xã hội hay sứ mệnh lịch sử cao cả; với họ,
đổi mới nghệ thuật không phải vì nâng cao thị hiếu thẩm mĩ của người đọc mà chủ yếu để tác
phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Bởi từ bỏ thái độ “nghiêm túc”, thái độ “lập ngôn”, nên khi sáng
tác họ có được tâm thái của người tham gia một trò chơi nào đó theo đúng nghĩa, xa rời trách
nhiệm xã hội và cảm giác sứ mệnh kiểu “đại tự sự”.
2.2.3. Giáo hóa và giải trí trong quan niệm về chức năng của văn học
Văn học đặc tuyển thường giới định văn học trong phạm vi diễn ngôn “giáo hóa”, “khai
sáng”, chú trọng “tái hiện”, “biểu hiện”; trong khi đó văn học đại chúng lại quan niệm chức năng
của văn học nằm ở tính giải trí, tiêu khiển. Tuy nhà văn đại chúng rất coi trọng sự tiếp nhận của
người đọc, nhưng không phải tất cả đều chiều theo thị hiếu của độc giả. Quan hệ giữa họ và người
đọc là quan hệ thị trường văn học, nhưng không tồn tại kiểu “khách hàng là thượng đế” như thị
trường kinh tế, họ duy trì một quan hệ tương đối bình đẳng với người đọc, ngay cả khi họ sử dụng
phương thức giáo hóa hoặc sử dụng tư tưởng chủ lưu làm đối tượng thể hiện. Vì thế, nếu nhà văn
đặc tuyển coi sáng tác văn học là con đường lập ngôn, lập thân, thì nhà văn đại chúng lại coi sáng
tác như một hoạt động sản xuất đặc biệt phục vụ thị trường văn hóa. Nếu văn học đặc tuyển coi
trọng hiệu quả nghệ thuật có thể khai sáng, kích thích thẩm mĩ của người đọc thì văn học đại
chúng lại tập trung vào thị hiếu thông thường, chú trọng nhu cầu giải trí. Vì thế, khi cùng đối diện
Nguyễn Thị Minh Thương và Lê Hải Anh
6
với một vấn đề, cách xử lí của văn học đặc tuyển và văn học đại chúng cũng khác nhau. Chẳng
hạn đối với vấn đề đạo đức, người đọc thông thường chỉ tư duy theo quan niệm ác giả ác báo được
lưu hành trong dân gian từ xa xưa. Văn học đại chúng thường xử lí quan hệ đạo đức trong tác
phẩm theo logic ác giả ác báo. Chúng ta có thể tìm thấy cách xử lí đó trong các tiểu thuyết kiếm
hiệp của Kim Dung hay tiểu thuyết diễm tình của Quỳnh Dao. Trong khi đó, văn học đặc tuyển
thường truy vấn, phản tư đối với quan niệm thiện ác và sự biểu hiện thực tế của nó trong đời sống.
Chẳng hạn trong Đàn hương hình không thiếu những chi tiết được liệt vào loại chi tiết kinh dị,
vốn là một kiểu chi tiết nhằm thỏa mãn tâm lí hiếu kì của người đọc đại chúng, nhưng Mạc Ngôn
lại thông qua những chi tiết đó để hướng người đọc đến những cảm nhận về “mĩ học của cái ác”.
2.3. Sự tương tác giữa văn học đại chúng và văn học đặc tuyển
Mặc dù có những định danh khác nhau, nhưng trong thực tiễn văn học từ cổ xưa đến nay luôn
tồn tại hai bộ phận văn học đại chúng và phi đại chúng. Hai bộ phận văn học này luôn có sự tương
tác qua lại trong suốt quá trình lịch sử. Đã có không ít công trình chứng minh ảnh hưởng qua lại
của văn học bác học và văn học dân gian. Trong thời kì trung đại, văn học bác học chiếm vị trí
chủ đạo, có không ít nhà văn đặc tuyển đã tiếp thu tinh thần văn học dân gian vào trong sáng tác
của mình. Ngược lại, văn học đặc tuyển cũng đi vào trong đời sống dân gian. Chỉ có điều, sự ảnh
hưởng ngược trở lại từ văn học bác học đến văn học dân gian không nhiều, và nó có một con
đường khá đặc biệt: một số văn nhân đã thâm nhập vào trong sinh hoạt văn học nghệ thuật dân
gian, và những sáng tác dưới ảnh hưởng của không khí dân gian của họ đã được nhân dân truyền
bá, dần dần trở thành sáng tác dân gian, được dân gian hóa. Mặc dù tài liệu chứng minh cho hiện
tượng này không nhiều, và xu hướng ảnh hưởng ngược trở lại của văn học bác học đến văn học
dân gian không thực sự phổ biến, nhưng nó ít nhiều thể hiện con đường tương tác giữa bộ phận
văn học đại chúng và văn học đặc tuyển đã có từ xưa.
Đến đầu thế kỉ XX, lịch sử Việt Nam xuất hiện biến chuyển lớn, trong đó đáng lưu ý nhất là
sự xuất hiện của công nghệ in ấn, báo chí, và ý thức sáng tác văn học như một nghề. Văn học
không chỉ là con đường lập thân, mà còn là con đường để mưu sinh. Chính điều kiện đó đã khiến
cho văn học đại chúng có cơ hội để phát triển. Trong công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam,
bên cạnh những tác phẩm theo đuổi cách tân nghệ thuật thì có một bộ phận văn học chú trọng đến
khả năng tiêu thụ của tác phẩm, chú ý đến việc thỏa mãn thị hiếu của người đọc bình dân, không
đặt trọng tâm vào theo đuổi cách tân nghệ thuật mà đặt trọng tâm vào số lượng độc giả. Không
phải ngẫu nhiên trong thời kì đầu thế kỉ, ở miền Nam xuất hiện phong trào dịch truyện Tàu, mà
chủ yếu là dịch những tác phẩm chú trọng vấn đề tình tiết, sự kiện, vấn đề chính nghĩa, thông
tục Theo khảo sát của Võ Văn Nhơn, “người dịch tác phẩm văn học Trung Quốc ra chữ quốc
ngữ đầu tiên có lẽ là Huỳnh Tịnh Của” [5]. Trong tập Chuyện giải buồn (1885), phần nhiều là
những truyện mang yếu tố kiếm hiệp, truyền kỳ như Cao sĩ truyện, Chiến quốc sách, và nhiều
nhất là Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Trong số 112 mục bài trong hai tập Chuyện giải buồn
đã có khoảng 70 truyện dịch từ Liêu trai chí dị. Trào lưu dịch truyện Tàu phát triển rầm rộ suốt ba
mươi năm đầu thế kỉ, chủ yếu là dịch tiểu thuyết anh hùng diễn nghĩa, tài tử giai nhân, kinh dị,
phá án đã ảnh hưởng trực tiếp đến các sáng tác văn xuôi của các tác giả Việt Nam khiến trong
sáng tác của văn học Việt Nam thời kì này cũng xuất hiện không ít tác phẩm có xu hướng “ngôn
tình”, “trinh thám”, “kinh dị”như tác phẩm của Trương Tửu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng,
Hoàng Đạo, nhằm thỏa mãn nhu cầu của bạn đọc thông thường, của tầng lớp thị dân. Tuy nhiên,
không thể phủ nhận, trong thời kì đầu thế kỉ, việc theo đuổi cách tân nghệ thuật vẫn chiếm vị trí
chủ đạo. Cho nên, dù ý thức rõ tính hàng hóa của văn học, nhưng các tác giả Việt khi đó vẫn theo
đuổi tinh thần cách tân nghệ thuật, dẫn đến sự hài hoà của yếu tố đại chúng và đặc tuyển trong
không ít tác phẩm của Tự lực văn đoàn và Thơ mới.
Sang đến giai đoạn kháng chiến, do chủ trương “đại chúng hóa văn nghệ” của Đảng khiến
các yếu tố của văn học đại chúng thâm nhập một cách mạnh mẽ vào văn học chính thống. Cho dù
Văn học đại chúng, văn học đặc tuyển đặc trưng và tương tác
7
đội ngũ sáng tác chủ đạo của văn học giai đoạn này vẫn là các nhà văn trước kia có thể được xếp
vào bộ phận văn học đặc tuyển, nhưng trong ý thức sáng tạo của họ đã có sự xâm nhập sâu sắc của
văn học đại chúng. Biểu hiện rõ nhất là các nhà văn đã hạn chế nhu cầu cách tân hình thức, cố
gắng viết sao cho phù hợp với trình độ tiếp nhận nghệ thuật của đại chúng. Nam Cao từng tâm sự
khi viết cuốn Đường rừng: Mỗi lần viết xong, tôi thường đưa cho chú Mán chú Mường đọc, chỗ
nào các chú chưa hiểu thì tôi sửa lại, khi nào các chú ấy hiểu toàn bộ thì mới công bố tác phẩm.
Khi người đọc bình dân trở thành người đánh giá thì văn học khó có thể theo đuổi cách tân mang
tính tiên phong về mặt nghệ thuật. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ gọi toàn bộ
văn học giai đoạn 1945-1975 đều là “văn học đại chúng”, mà chỉ có thể nói là văn học có khuynh
hướng đại chúng hóa, văn học hướng tới đại chúng. Bởi vì lấy tiêu chí đã đưa ra ở trên, các nhà
văn sáng tác theo khuynh hướng đại chúng hóa nhưng không hướng tới kích thích hay thỏa mãn
nhu cầu giải trí thông thường của người đọc, ý thức về trách nhiệm xã hội và sứ mệnh của nhà văn
vẫn hết sức sâu sắc, và các nhà văn thời kì này cũng không đặt ra vấn đề “thị trường văn học”, vấn
đề mức độ tiêu thụ tác phẩm.
Vấn đề “văn học đại chúng” và “văn học đặc tuyển” chỉ thực sự được đặt ra khi văn hóa đại
chúng bùng nổ. Những năm gần đây, khi truyện ngôn tình được dịch tràn lan và được hưởng ứng
nhiệt liệt, khi văn học mạng đã trở thành hiện tượng nổi bật làm thay đổi quan niệm về toàn bộ
hoạt động văn học từ sáng tác, truyền bá đến tiếp nhận, khi quy luật thị trường chi phối vào mọi
ngóc ngách của đời sống, thì giới nghiên cứu văn học không thể thờ ơ trước sự tồn tại của văn học
đại chúng và sự tương tác của nó với văn học đặc tuyển. Hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết: vị
trí của văn học đại chúng trong tương quan với văn học đặc tuyển; sự xâm nhập tương tác lẫn
nhau giữa hai bộ phận văn học này như thế nào trong thời điểm hiện nay? Biểu hiện cụ thể của sự
tương tác đó trong tác phẩm là gì? Nguyên nhân vì sao dẫn đến sự tương tác đó?....
Có thể nói, diện mạo mới của sự tương tác giữa văn học đại chúng và văn học đặc tuyển
trong thời điểm hiện nay bị quy định bởi sự tác động của cơ chế thị trường. Không khó khăn khi
tìm những tác phẩm thuộc văn học đặc tuyển nhưng cố gắng chèn vào những yếu tố thu hút độc
giả thông thường. Ngay cả một tác giả vốn được liệt vào đội ngũ nhà văn đặc tuyển như Nguyễn
Huy Thiệp thì cũng có lúc đã chọn sáng tác hoàn toàn chỉ để phục vụ thị trường, tức là đã chủ
động đặt tác phẩm của mình vào bộ phận văn học đại chúng. Như vậy, trong thời đại ngày nay,
các chiêu “câu khách” của văn học đại chúng trở thành cách thức để văn học đặc tuyển tìm kiếm
sinh lộ. Cứ như thế, văn học đại chúng đã thâm nhập vào văn học đặc tuyển bằng một thứ “quyền
lực mềm” của mình. Tất nhiên, văn học đại chúng cũng sử dụng những tìm tòi về hình thức nghệ
thuật của văn học đặc tuyển để nâng cao khả năng thu hút người đọc phổ thông. Chỉ có điều, họ
thường chỉ sử dụng những hình thức nghệ thuật đã trở thành phổ biến hoặc có khả năng trở thành
phổ biến, người đọc phổ thông có thể tiếp nhận được một cách rộng rãi. Tôn chỉ của văn học đại
chúng là thỏa mãn nhu cầu của người đọc phổ thông, nhu cầu hướng tới những yếu tố có khả năng
thỏa mãn tâm lí hiếu kì, cách xử lí tình huống theo quan niệm đạo đức thông thường, các yếu tố
mang tính giải trí cao như các vấn đề kinh dị, ma quái, viễn tưởng, tình yêu, tình dục..., và sử
dụng cách thể hiện dễ hiểu, chú ý vào chi tiết gây ấn tượng mạnh.
3. Kết luận
Vấn đề phân biệt văn học đại chúng và văn học đặc tuyển cùng tương tác giữa chúng trong