Xây dựng bài tập vận động & bài tập tri nhận không gian cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc

TÓM TẮT Chứng khó đọc (Dyslexia) là dạng khuyết tật học tập phổ biến ở trẻ em. Không chỉ gặp khó khăn khi đọc, nói, viết, tính toán mà trẻ bị Dyslexia còn có vấn đề về tri nhận không gian. Vì vậy song song với vật lý trị liệu, tâm lí trị liệu, thì các bài tập vận động và bài tập tri nhận không gian được xem là một nội dung cần chú ý trong can thiệp trị liệu cho trẻ khó đọc. Giả thiết được đặt ra nếu HS lớp 1 mắc chứng khó đọc được can thiệp sớm bằng phương pháp đa giác quan kết hợp chặt chẽ với các bài tập vận động, tri nhận không gian bên cạnh các bài tập nhận thức âm vị, nhận thức chính tả, đọc lưu loát, mở rộng vốn từ thì sẽ có những chuyển biến tốt trong việc học đọc của mình. Bài báo này đề cập đến việc thử nghiệm xây dựng 11 bài tập vận động kết hợp với 17 bài tập tri nhận không gian và ứng dụng những bài tập này can thiệp cho 8 HS lớp 1 ở Tp.HCM mắc chứng khó đọc.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng bài tập vận động & bài tập tri nhận không gian cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 52 XÂY DỰNG BÀI TẬP VẬN ĐỘNG & BÀI TẬP TRI NHẬN KHÔNG GIAN CHO HỌC SINH LỚP 1 MẮC CHỨNG KHÓ ĐỌC Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Bùi Thị Thành, Trần Thị Tố Trinh (Sinh viên năm 4, Khoa Giáo dục Tiểu học) GVHD: PGS TS Nguyễn Thị Ly Kha TÓM TẮT Chứng khó đọc (Dyslexia) là dạng khuyết tật học tập phổ biến ở trẻ em. Không chỉ gặp khó khăn khi đọc, nói, viết, tính toán mà trẻ bị Dyslexia còn có vấn đề về tri nhận không gian. Vì vậy song song với vật lý trị liệu, tâm lí trị liệu, thì các bài tập vận động và bài tập tri nhận không gian được xem là một nội dung cần chú ý trong can thiệp trị liệu cho trẻ khó đọc. Giả thiết được đặt ra nếu HS lớp 1 mắc chứng khó đọc được can thiệp sớm bằng phương pháp đa giác quan kết hợp chặt chẽ với các bài tập vận động, tri nhận không gian bên cạnh các bài tập nhận thức âm vị, nhận thức chính tả, đọc lưu loát, mở rộng vốn từ thì sẽ có những chuyển biến tốt trong việc học đọc của mình. Bài báo này đề cập đến việc thử nghiệm xây dựng 11 bài tập vận động kết hợp với 17 bài tập tri nhận không gian và ứng dụng những bài tập này can thiệp cho 8 HS lớp 1 ở Tp.HCM mắc chứng khó đọc. Từ khóa: chứng khó đọc, bài tập vận động, tri nhận không gian, can thiệp trị liệu, HS lớp 1 ABSTRACT Building the muscle exercises and spatial awareness exercises for grades 1 dyslexic students Dyslexia is a general learning disability in children. Not only have trouble in reading, speaking, writing, numeracy that dyslexic children also have problems with spatial awareness... So along with physical therapy, psychology,... then the muscle exercises and spatial awareness exercises are considered a noteworthy method of treatment for dyslexic children. On the assumption that if grade 1 dyslexic students is early intervened by multisensory method and combine with muscle exercises, spatial awareness exercises and phonological awareness, orthography, vocabulary there will be positive changes in their reading. This article mentions experiment in building the 11 muscle exercises and 17 spatial awareness exercises and bring it into practise for 8 1st grade students in HCMC infected by Dyslexia syndrome. Keywords: dyslexia, muscle exercises, spatial awareness, to be intervened, grade 1 students. 1. Vấn đề tri nhận không gian của trẻ mắc chứng khó đọc 1.1. Tri nhận không gian và hoạt động đọc Tri nhận không gian (hay tri giác không gian) theo tâm lí học là tri giác về hình dáng, độ lớn, vị trí, độ xa và phương hướng của các sự vật đang tồn tại trong không Năm học 2012 - 2013 53 gian. Loại tri giác này giữ vai trò quan trọng trong sự tác động qua lại của con người với môi trường xung quanh, nó là điều kiện để con người định hướng trong môi trường. Người mắc chứng khó đọc thường rối loạn trong việc tri nhận không gian: trên, dưới, trái, phải, trước, sau và kéo theo sẽ gặp rối loạn trong việc tri nhận vị trí của các âm, sẽ rất khó giải mã đúng các tiếng. Do đó, họ sẽ không hiểu nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản. Vì thế, việc rèn luyện cho trẻ khả năng tri nhận không gian tốt là điều hết sức quan trọng [15]. 1.2. Tri nhận không gian của trẻ lớp 1 mắc chứng khó đọc Chứng khó đọc là một tình trạng thiểu năng học tập được đặc trưng bằng khó khăn trong việc diễn đạt hoặc tiếp nhận ngôn ngữ nói hay viết. Các nghiên cứu của Vidyasagar TR. &Pammer K (2009), Facoetti (2000, 2009), cho thấy có những khuyết tật cụ thể trong việc chuyển sự chú ý do thời gian tập trung ngắn, không đủ lâu để xử lí hình ảnh một cách hiệu quả như mong đợi. Và sự thiếu tập trung chú ý lựa chọn hình ảnh của người mắc chứng khó đọc, theo các tác giả trên, có thể là do một khó khăn cụ thể trong việc định hướng và độ tập trung chú ý. Các nghiên cứu về chứng khó đọc được biết đến đều cho rằng biểu hiện của chứng khó đọc thường thấy qua các hành vi vận động vụng về, khó khăn với việc vận động; thường lẫn lộn trái/phải, trên/dưới, kéo theo khi đọc, những trẻ này thường thêm bớt, đảo trật tự âm, từ; bắt đầu với vị trí không chính xác, khi viết thường thêm hoặc bỏ nét, viết không đúng kiểu dạng chữ, chiều hướng chữ, không ngay hàng, không chú ý đến khoảng cách giữa các chữ, (Nguyễn Thị Ly Kha 2012, 2013b, Bùi Thế Hợp 2013). 1.3. Bài tập vận động và bài tập tri nhận không gian cho HS lớp 1 có khó khăn về đọc Bài tập vận động được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm cả vận động thô và vận động tinh. Những bài tập này nhằm thu hút sự tập trung của trẻ lâu hơn và liên tục hơn bằng cách phối hợp các giác quan trong cơ thể, từ đó giúp việc nghe, nói được linh hoạt hơn. Việc học Tiếng Việt cũng đòi hỏi trẻ có khả năng tri nhận không gian trong việc xác định thứ tự các âm vị, thứ tự các chữ cái, thứ tự các từ; xác định chiều hướng các dấu phụ Các bài tập vận động được kết hợp cùng bài tập tri nhận không gian có thể có tác dụng không nhỏ trong việc giúp trẻ rèn luyện khả năng tri nhận về thứ tự trước sau, trên dưới, trong ngoài, trái phải từ đó có thể khắc phục các loại lỗi trong đọc và viết mà HS bình thường, nhất là HS bị chứng khó đọc thường mắc phải. Loại bài tập này, có thể tìm thấy ở các trang web của Hiệp hội Dyslexia ở những quốc gia pháp triển, như www.listenandlearn.com.au/disorders_dyslexia.asp, www.bdadyslexia.org.uk,... Nhưng ở Việt Nam, cho đến thời điểm này (4/2013), hầu như chưa có một nghiên cứu nào bàn một cách hoàn chỉnh về vấn đề này khi dạy học cho HS lớp 1 mắc chứng khó đọc. Các bài viết nếu có đề cập đến vấn đề tri nhận không gian của trẻ thì cũng chủ yếu tập trung vào khía cạnh từ kết quả của sự tri nhận không gian khách quan tồn tại trong đầu óc của con người, thường được gọi là “không gian được tri giác”, đến việc sử dụng nó trong các hoạt động hàng ngày. Thành thử, có thể nói cho đến thời điểm hiện nay ở nước ta ngoài một phác thảo có tính thử nghiệm một số bài tập giúp HS lớp 1 định hướng không gian, khắc phục những nhầm lẫn khi đọc và viết các âm vị - tự vị có liên quan tới khả năng tri nhận không gian của Nguyễn Thị Ly Kha và Phạm Hải Lê Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 54 (2013b), chưa có công trình nào công bố về việc xây dựng và thử nghiệm bài tập vận động, bài tập tri nhận không gian cho HS mắc chứng khó đọc. Các bài tập vận động được xây dựng trong nghiên cứu này gồm các bài tập vận động tay chân, bài tập vận động thô, cùng với các bài tập vận động tinh (tô màu, vẽ,). Các bài tập này luôn được tích hợp với các yếu tố tri nhận không gian trái - phải, trên - dưới, trước - sau, giúp trẻ chơi mà học và tạo tâm thế cho trẻ bắt đầu tiết học hoặc thay đổi “bầu không khí” giảm căng thẳng cho trẻ. Bên cạnh các bài tập vận động còn có các bài tập hỗ trợ tri nhận không gian được tích hợp với các nhóm bài tập ngôn ngữ khác nhằm giúp trẻ không bị nhầm lẫn khi tri nhận không gian và góp phần cải thiện khả năng đọc của trẻ. Giả thiết được đặt ra : nếu trẻ lớp 1 mắc chứng khó đọc được can thiệp sớm bằng phương pháp đa giác quan kết hợp chặt chẽ với các bài tập vận động, bài tập hỗ trợ tri nhận không gian bên cạnh các bài tập nhận thức âm vị, nhận thức chính tả, đọc lưu loát, mở rộng vốn từ thì sẽ có những chuyển biến tốt trong việc học đọc của mình. 2. Xây dựng và thử nghiệm bài tập vận động và bài tập tri nhận không gian 2.1. Căn cứ xây dựng và thử nghiệm hệ thống bài tập 2.1.1. Căn cứ đặc điểm tâm sinh lí và ngôn ngữ của HS lớp Một mắc chứng khó đọc Theo các nhà nghiên cứu, trẻ mắc chứng khó đọc thường có các khó khăn sau :  Về tầm nhìn: Nhìn thấy chuyển động không tồn tại trong khi đọc, viết. Khó khăn khi quan sát dù mắt điều tiết bình thường. Thiếu nhận thức sâu sắc và tầm nhìn ngoại vi.  Về vận động: Thiếu sự phối hợp, gặp khó khăn ở các môn thể thao bóng hoặc nhóm, kỹ năng vận động kém hơn so với trẻ đồng trang lứa. Dễ bị say tàu xe. Lẫn lộn trái/phải và trên/dưới.  Bộ nhớ / nhận thức: Nhớ bề ngoài của đối tượng khá tốt nhưng ghi nhớ kém. Nhận biết sự vật, không thông qua ngôn ngữ nói hay viết mà thông qua hình ảnh của nó .  Hành vi: Có ý thức đòi hỏi sự công bằng khá cao. Có thể là người gây cười, pha trò của lớp nhưng cũng có thể là người ít nói nhất lớp. Dễ bị dị ứng, nhiễm trùng tai. Thường ngủ sâu hoặc ngủ chập chờn. Sai lầm và các triệu chứng tăng lên đáng kể khi gặp sự nhầm lẫn, sức khỏe kém, áp lực thời gian, căng thẳng cảm xúc.  Về ngôn ngữ: Vốn từ có thể nghèo nàn hơn trẻ cùng trang lứa, thường đảo đổi âm, chữ, thêm bớt âm, chữ, từ khi đọc, viết, đọc chậm, không nhất quán giữa đánh vần và đọc trơn, đọc lưu loát kém, 2.1.2. Căn cứ chương trình, SGK môn Tiếng Việt Môn tiếng Việt ở lớp Một được học 350 tiết trong vòng 35 tuần. Kiến thức lớp Một được chia làm 2 mảng là tiếng Việt và Văn học, với các nội dung học âm, vần, chữ cái, thanh điệu, dấu ghi thanh điệu, một số quy tắc chính tả; từ ngữ, một số đoạn văn, bài văn, bài thơ về nhà trường, gia đình, thiên nhiên, đất nước; dấu chấm, dấu chấm hỏi, nghi thức lời nói. Phần học âm, vần được bố trí ở học kì I (18 tuần) và nửa đầu học kì II (6 tuần) với 103 bài, cung cấp tất cả các âm và các hầu hết các khuôn vần của tiếng Việt. Năm học 2012 - 2013 55 2.1.3. Căn cứ thực trạng lỗi của HS và thực trạng dạy học cho HS bị chứng khó đọc Thực trạng những khó khăn về vận động và tri nhận không gian của HS, như hay nhầm lẫn trái/phải, dấu sắc/dấu huyền, đảo trật tự các vị tự trong tiếng, cũng là căn cứ để xây dựng và sử dụng các bài tập nhằm can thiệp cho những HS bị chứng khó đọc. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi nhận thấy việc rèn luyện khả năng vận động và tri nhận không gian cho những HS lớp 1 có khó khăn về tri nhận không gian liên quan tới việc đọc, hầu như chưa được quan tâm. Khảo sát ý kiến giáo viên (đã và chưa được tập huấn về Dyslexia), PHHS, chúng tôi thấy 4 biểu hiện được lựa chọn nhiều nhất là: Khi đọc hoặc viết thường lẫn lộn, đảo, đổi, bỏ sót: thêm từ, chữ: hoặc thay thế từ, chữ1. Điều này cho thấy giáo viên, PHHS bước đầu có những nhận thức về một trong những dấu hiệu nhận biết chứng khó đọc là dựa vào khả năng vận động và tri nhận không gian của HS. Nhưng khi được hỏi ý kiến về cách thức giúp đỡ HS có khó khăn về đọc, thì hầu hết GV và PHHS đều chọn phương pháp tăng cường luyện đọc cho HS mắc chứng khó đọc. Còn các phương pháp dùng cho trẻ bí chứng khó đọc, như sử dụng phương pháp đa giác quan; sử dụng các bài tập chuyên biệt, lại chưa được quan tâm và lựa chọn. 2.2. Bài tập vận động – tri nhận không gian cho trẻ mắc chứng khó đọc2 Tiếng Việt thuộc loại hình chữ cái ghi âm âm vị, trật tự các tự vị cho một chữ theo trật tự cấu trúc âm đoạn. Vì vậy, khi học đọc, trẻ cần xác định đúng vị trí của các âm, vần, dấu thanh tuy nhiên, người gặp rối loạn trong việc tri nhận vị trí của các âm sẽ rất khó giải mã đúng các tiếng, do đó không hiểu nghĩa của từ, câu, đoạn văn. Xuất phát từ mục đích khắc phục nhóm lỗi về đọc của trẻ như nhầm lẫn các tự vị có hình dạng tương tự nhưng khác nhau về hướng trong không gian, chúng tôi xây dựng hệ thống bài tập gồm bài tập vận động thô, vận động tinh và bài tập tri nhận không gian cùng 23 giáo án minh họa cho từng bài tập: Hệ thống bài tập vận động Hệ thống bài tập tri nhận không gian (17 trò chơi) BT vận động thô (6 trò chơi) BT vận động tinh (5 trò chơi) Kết hợp với BT nhận thức âm vị Kết hợp với BT chính tả Kết hợp với BT mở rộng vốn từ 1. Năm ngón tay xinh 2. Tay chân đồng lòng 3. Lò cò xuyên Việt 4. Tin ba chữ 5. Nhà thiết kế tài ba 6. Hiểu ý đồng đội 1. Tranh ai đẹp 2. Tớ vẽ tranh 3. Tìm nhà cho Thỏ 4. Đường đi của chữ cái 5. Những nét chữ cùng hướng 1. Đãi cát tìm vàng 2. Bác đưa thư 3. Đám mây muôn màu 4. Đổi màu chữ 5. Đi tìm một nửa 6. Bịt mắt bắt chữ 7. Khắc xuất 8. Mê cung huyền bí 9. Tập làm cảnh sát 1. Đám mây muôn màu 2. Bác nông dân tí hon 3. Mê cung huyền bí 4. Bé dọn hàng 1. Chuyện “Công, ong và quạ” 2. Lạc vào mê cung 3. Những chữ kỳ diệu. 4. Bác nông dân tí hon 1 Kết quả khảo sát của chúng tôi có khác biệt ít nhiều so với kết quả của Đặng Ngọc Hân (2012) và Lê Thị Thuỳ Dương (2012). Sự khác biệt đó, đã cho chúng tôi có nhận định như đã nêu. 2 Các bài tập được thiết kế trên cơ sở bài tập của Nguyễn Thị Ly Kha, Phạm Hải Lê (2013b), Phạm Hải Lê (2013, tư liệu cá nhân). Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 56 Hệ thống bài tập vận động thô: Các trò chơi giúp HS phân biệt trái/phải trên/dưới với nhiều nội dung và hình thức khác nhau như giơ tay trái/phải theo hiệu lệnh, đổi vị trí tay trái/phải và chân trái/phải, hoặc tự ra lệnh, tạo câu hỏi nếu trả lời đúng thì nhảy theo yêu cầu lên trên hoặc xuống dưới; hoặc kết hợp giúp HS phân biệt cả trái/phải và trên/dưới nói “trên trên trên – trái trái trái thì HS đặt 2 tay lên đầu và tiến chân trái 1 bước. Tên trò chơi được đặt nhằm tạo sự thân thiện và gần gũi với HS như: Năm ngón tay xinh, Tay chân đồng lòng, Lò cò xuyên Việt, Tin ba chữ, Chẳng hạn như trò chơi “Nhà thiết kế tài ba” HS gấp giấy theo hướng dẫn của GV và có hình minh họa chi tiết từng bước để HS dễ hình dung hơn. Hệ thống bài tập vận động tinh: Gồm các trò chơi rèn cho trẻ khả năng phối hợp tay – mắt, đồng thời giúp các em phát triển tri giác với các tiếp xúc bằng tay như các hoạt động: tô, vẽ, các trò chơi tìm đường, xác định vị trí trái - phải của các nét sổ chữ b/d/p/q hay vị trí của nét cong kín của chữ p/q, d/b, số 6/số 9, Chẳng hạn trò chơi “Đường đi của chữ cái” giúp học sinh xác định đúng biểu tượng chữ cái được yêu cầu , để sau đó, tìm ra các vị trí mà chữ cái đó đi qua. Khi tìm ra đúng và vẽ ra đường đi cho chữ cái, HS rất hào hứng. Hệ thống bài tập tri nhận không gian: Hệ thống gồm 23 bài tập tri nhận không gian kết hợp với các bài tập ngôn ngữ khác như nhận thức âm vị, chính tả, mở rộng vốn từ, đọc lưu loát, đọc hiểu nhằm giúp trẻ cải thiện khả năng tri nhận không gianvà khả năng đọc. Việc kết hợp khả năng tri nhận không gian cùng bài tập nhận thức âm vị giúp trẻ nhận biết, phân biệt và phân tách âm vị một cách chính xác. Hệ thống bài tập được xây dựng dựa trên các lỗi mà trẻ hay mắc phải như b/d/p/q, dấu sắc /dấu huyền và được tổ chức dưới dạng các trò chơi cùng tên gọi thân thiện nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ như Khắc xuất, Tập làm cảnh sát, Bác đưa thư, Đổi màu chữ, Hái táo, Mê cung. Năm học 2012 - 2013 57 Hoặc kết hợp giữa việc rèn khả năng tri nhận không gian cùng kĩ năng viết chính tả nhằm giúp quá trình trị liệu đạt kết quả tốt hơn Hoặc đọc câu chuyện “Công, ong và quạ” (phần 2) (Từng câu được viết trên những băng giấy rời có đánh số thứ tự, HS sắp xếp theo thứ tự và dán vào bảng rồi đọc cả bài) hay trò chơi “Lạc vào mê cung” HS rèn luyện khả năng tri nhận không gian kết hợp với hiểu nghĩa từ qua việc nối các chữ cái tạo thành từ có nghĩa nhưng phải nối từ trái qua phải, từ trên xuống dưới; các trò chơi kết hợp với mở rộng vốn từ: Đi tìm kho báu, Những chữ cái kì diệu, Bé dọn hàng, Hiểu ý đồng đội, 2.3. Nguyên tắc và phương pháp Thử nghiệm các bài tập cho HS, chúng tôi tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, tính toàn diện, tính giáo dục, tính phát triển, tính trực quan sinh động; sắp xếp thời gian tác động phù hợp; đa dạng hóa về hình thức và nội dung bài, cùng với việc áp dụng các phương pháp trò chơi học tập và phương pháp trực quan; làm mẫu; cá biệt hóa. 2.4. Quy trình thực nghiệm Trước khi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành 3 lần khảo về khả năng vận động, tri nhận không gian và khả năng đọc viết3 từ đó chọn ra 3 nhóm thực nghiệm, đối chứng và nhóm HS bình thường. Tùy vào kết quả và trình độ của từng trẻ mà chúng tôi thiết kế những bài tập theo hướng cá nhân hóa.Việc tổ chức thực nghiệm được thực hiện với thời lượng 3 buổi/tuần, mỗi buổi từ 30 đến 45 phút, ghi nhận kết quả sau từng buổi dạy, điều chỉnh nội dung bài tập phù hợp với những lỗi sai của từng cá nhân HS và theo tính cách, khả năng tiếp thu của từng em. Quá trình thực nghiệm tổ chức theo hình thức cá nhân kết hợp các hoạt động làm việc trên giấy đến vận động; các bài tập ngôn ngữ xen kẽ các bài tập vận động và tri nhận không gian. Các bài tập tổ chức dưới hình thức các trò chơi, khai thác vận dụng phương pháp đa giác quan và các ứng dụng công nghệ thông tin cũng như tổ chức cho HS thi đua tạo động lực và có tuyên dương nhận xét sau mỗi buổi. 2.5. Mẫu thực nghiệm Chúng tôi chọn 8 HS để thực nghiệm hệ thống bài tập và nhóm 7 HS để đối chứng. Tất cả 14 HS này được khảo sát ngẫu nhiên từ các lớp 1 của 3 trường nói trên 3 Chúng tôi sử dụng bộ trắc nghiệm của Nguyễn Thị Ly Kha (2012) biên soạn. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 58 và tiêu chí lựa chọn dựa trên nhiều tài liệu trong và ngoài nước, chủ yếu là tài liệu của Victoria Joffe, T.Pring (2008) với 44 biểu hiện của chứng khó đọc. Chúng tôi tiến hành lấy ý kiến của giáo viên, bảo mẫu, PHHS và thực hiện các bài kiểm tra khả năng đọc, viết kết hợp với quan sát thực tế từ đó thống kê những HS có nhiều biểu hiện của chứng khó đọc nhất. Để loại trừ bớt những sai số và nhầm lẫn khi xác định, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 3 lần trước khi quyết định chọn ra đối tượng. Về khả năng vận động-tri nhận không gian: trẻ không thích tham gia vào giờ học thể dục cùng lớp, thích chơi trong nhóm nhóm nhỏ, thích các hoạt động nhẹ nhàng hơn là vận động mạnh như chạy nhảy. Thường nhầm lẫn trái/phải, trên/dưới Về khả năng đọc: lẫn lộn p/q/d/đ, lẫn lộn các cặp vần ua/au, ăng/ăt, hay bỏ sót dấu (tãu  tau,), đảo ngược vị trí các chữ cái trong tiếng (oam  mao,), hay thêm dấu hoặc bỏ dấu trong khi đọc, dấu sắc/dấu huyền, bỏ sót âm cuối (nửi  nử, ,), chưa biết ghép vần, không đọc được các âm đầu được ghi bằng tổ hợp 2 đến 3 chữ cái (gh, ng,), không đọc được các vần ua, ưa, ia, không thống nhất giữa đánh vần và đọc trơn (đìm  m+i) 2.6. Kết quả thực nghiệm  Về thái độ: HS nhóm thực nghiệm vui vẻ hợp tác, tương đối kỷ luật trong học tập, hứng thú với các bài tập – trò chơi, riêng bé A.P thì chưa thật sự cởi mở với các bạn, vẫn còn rụt rè. Các trò chơi vận động thô kết hợp vận động tinh không chỉ tạo tiền đề mà còn giúp các em hào hứng và giảm bớt căng thẳng, ức chế, khi các em thực hiện các trò chơi - bài tập ngôn ngữ, bài tập tri nhận không gian, loại bài tập phức tạp và đòi hỏi các em tập trung hơn và thời gian thực hiện cũng lâu hơn. Bài tập – trò chơi tri nhận không gian kết hợp với mở rộng vốn từ tạo cho các em nhiều điều thú vị và khai thác được vốn hiểu biết của các em nhiều.  Về tri nhận không gian và khả năng đọc: TĐĐ Chữ cái (cc/ 60s) TĐĐ chữ (chữ/ 60s) Đọc từ rỗng (từ/ 60s) Trái/ phải Trên/ dưới A B C A B C A B C A B C A B C Trung bình (1) 20.13 24.75 35 2.75 2.5 16 2.5 4 18.6 16.88 17.13 27.5 11.63 10.63 16.5 Trung bình (2) 32.5 30.38 49.3 14.5 8.13 26.8 20.13 9.88 28.8 24.5 17.13 27.67 15.38 12.75 16.83 Độ chênh lệch 12.37 5.63 14.3 11.75 5.63 10.8 17.63 5.88 10.2 7.62 0 0.17 3.75 2.12 0.33 Phương sai (1) 43.29 195.7 2 7.4 1.93 3.76 7.23 7.24 12.96 12.46 46.24 57.76 5.32 10.76 12.74 1.12 Phương sai (2) 34.22 204.2 9.93 24.01 25.6 6.47 156.25 28.8 16.06 28.52 16.89 5.41 1.99 11.97 0.37 Độ chênh lệch -9.07 8.48 2.53 22.08 21.84 -0.76 149.01 15.84 3.6 -17.72 - 40.87 0.09 -8.77 -0.77 -0.75 (1) (2): Trước/Sau thực nghiệm A: Nhóm thực nghiệm B: Nhóm đối chứng C: Nhóm HS bình thường Năm học 2012 - 2013 59 Nhìn chung độ chênh trung bình các nhóm đều tăng (+) , tăng nhiều nhất là nhóm thực nghiệm, hầu hết nhóm bình thường đứng thứ 2 trừ trường hợp trên dưới nhóm bình thường tăng ít hơn so với nhóm đối chứng, có lẽ do quá cao gần đạt ngưỡng. Phương sai dao động nhiều. Ở tiêu chí TĐĐ chữ cái, trái/phải, trên dưới phương sai nhóm thực nghiệm giảm, có sự giảm khác biệt trong tiêu chí này, ở TĐĐ chữ, đọc từ rỗng, phương sai có tăn
Tài liệu liên quan