TÓM TẮT
Hiện nay việc xây dựng các chương trình tiên tiến trong các trường Đại học là một
trong những yêu cầu quan trong góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Bài viết
giới thiệu các chương trình tiên tiến tại một số trường đại học Việt Nam và Trường Đại
học bang Arizona (Hoa Kì). Bài viết cũng đề cập đến mục tiêu xây dựng chương trình tiên
tiến ngành Khoa học máy tính (KHMT) tại trường Đại học Vinh.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chương trình tiên tiến chuyên ngành khoa học máy tính tại trường Đại học Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 - Thaùng 2/2012
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TIÊN TIẾN CHUYÊN NGÀNH
KHOA HỌC MÁY TÍNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN LÊ NA
(*)
TÓM TẮT
Hiện nay việc xây dựng các chương trình tiên tiến trong các trường Đại học là một
trong những yêu cầu quan trong góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Bài viết
giới thiệu các chương trình tiên tiến tại một số trường đại học Việt Nam và Trường Đại
học bang Arizona (Hoa Kì). Bài viết cũng đề cập đến mục tiêu xây dựng chương trình tiên
tiến ngành Khoa học máy tính (KHMT) tại trường Đại học Vinh.
ABSTRACT
Construction of advanced programs at universities now is one of the important
requirements that contribute to improve the quality of higher education. This paper
introduces advanced programs at universities in Vietnam and Arizona State University
(USA). We also discuss about the aims for construction of advanced program in Computer
Science at Vinh University.
1. XÂY DỰNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH
TIÊN TIẾN Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN THẾ GIỚI LIÊN KẾT VỚI CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM (*)
Giáo dục đại học Việt Nam đang đứng
trƣớc các thách thức lớn trong quá trình
cạnh tranh hội nhập quốc tế. Để có thể phát
triển bền vững, các trƣờng cần phải đổi
mới mạnh mẽ từ năng lực quản lí, đội ngũ
cán bộ, chƣơng trình, phƣơng pháp dạy
học. Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ
về "Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020"
(Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày
02/11/2005) với chiến lƣợc từ 2006 đến
2020 đƣa giáo dục đại học Việt Nam đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận
trình độ tiên tiến của thế giới, Bộ Giáo dục
và Đào tạo và các trƣờng Đại học đã nhanh
chóng hoàn thiện chƣơng trình, từng bƣớc
(*)
TS, Trƣờng Đại học Vinh
hƣớng tới những chuẩn mực tiên tiến của
quốc tế trong giáo dục đại học. Ngày
15/10/2008, Chính phủ đã phê duyệt đề án
"Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại
một số trường đại học của Việt Nam giai
đoạn 2008 -2015". Trên tinh thần “tiếp thu
có chọn lọc và đào tạo thí điểm một số
chương trình và giáo trình tiên tiến hiện
đại đang giảng dạy ở các trường đại học
nước ngoài phù hợp yêu cầu phát triển của
Việt Nam”, đến nay đã có 23 trƣờng đại
học trên cả nƣớc triển khai chƣơng trình
đào tạo tiên tiến (CTTT). Các trƣờng đại
học Việt Nam đã hợp tác, liên kết với 22
trƣờng đại học lớn trên thế giới và triển
khai thực hiện 35 CTTT, trong đó có 20
chƣơng trình thuộc khối ngành kĩ thuật,
công nghệ, 5 chƣơng trình thuộc khối
ngành kinh tế, 1 chƣơng trình thuộc khối
ngành khoa học sức khỏe, 6 chƣơng trình
thuộc khối ngành khoa học tự nhiên và môi
trƣờng, 3 chƣơng trình thuộc khối nông
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TIÊN TIẾN CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC MÁY TÍNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
nghiệp. Hầu hết các trƣờng đối tác nƣớc
ngoài đƣợc xếp hạng trong tốp 200 theo
bảng xếp hạng của US News.
Nhiều trƣờng đại học lớn trong cả
nƣớc đã triển khai thực hiện CTTT cho
nhóm ngành Công nghệ Thông tin (CNTT)
nhƣ Trƣờng Đại học CNTT thuộc Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (chuyên ngành
Khoa học máy tính kết hợp với Đại học
Portland State University - Hoa Kì năm
2006); Trƣờng Đại học Đà Nẵng (chuyên
ngành Hệ thống nhúng kết hợp với
University of Washington- Hoa Kì năm
2008); Trƣờng Đại học Công nghệ thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội (chuyên ngành
Hệ thống thông tin kết hợp với Oklahoma
State University, Hoa Kì năm 2008).
Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại
học Quốc gia TP. HCM đƣợc Bộ Giáo dục
và Đào tạo giao nhiệm vụ triển khai đào
tạo thí điểm một trong mƣời CTTT đầu
tiên (khoá tuyển sinh từ năm học 2006-
2007). Cho đến nay, Đại học Khoa học Tự
Nhiên thuộc ĐHQG Thành phố Hồ Chí
Minh đƣợc đánh giá là một trong năm
trƣờng đại học đào tạo CNTT theo CTTT
tốt nhất cả nƣớc. Sau năm khoá đào tạo
theo CTTT, sinh viên tốt nghiệp khá, giỏi
chiếm tỉ lệ cao. Tại Trƣờng Đại học Công
nghệ thuộc ĐHQG Hà Nội, các chƣơng
trình đào tạo cũng đƣợc xây dựng theo các
CTTT và quản lí, tổ chức đào tạo theo các
tiêu chuẩn kiểm định quốc tế, trong đó có
các chuẩn kiểm định chất lƣợng của mạng
lƣới các trƣờng đại học ASEAN (AUN) và
ABET. Tháng 12/2009, chƣơng trình đào
tạo ngành CNTT của Trƣờng Đại học
Công nghệ là chƣơng trình đầu tiên của
Việt Nam đƣợc kiểm định theo bộ tiêu
chuẩn AUN. Theo đánh giá của đoàn
chuyên gia đánh giá ngoài của AUN,
chƣơng trình đào tạo đạt chuẩn AUN tƣơng
đƣơng với chƣơng trình đào tạo của 6
trƣờng đại học hàng đầu Đông Nam Á.
2. XÂY DỰNG CTTT NGÀNH KHMT Ở
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Ngành Khoa học máy tính (Computer
Science) thuộc lĩnh vực khoa học tính toán,
lập trình, hệ thống thông tin, hệ thống tri
thức, xây dựng phần mềm và phát triển ứng
dụng xử lí hình ảnh, âm thanh, lí thuyết
khai thác cơ sở dữ liệu Chƣơng trình đào
tạo ngành KHMT đƣợc thiết kế dựa trên
chƣơng trình khung quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và chƣơng trình KHMT của
các đại học tiên tiến. Chƣơng trình giúp
ngƣời học có khả năng thiết kế và hiện thực
hoá các hệ thống thông tin, hệ thống tri
thức và hệ thống phần mềm. Các trƣờng
đào tạo ngành KHMT gồm: Đại học Hà
Nội, Đại học Công nghệ (Đại học QGHN),
Học viện Bƣu chính Viễn thông, Đại học
Sƣ phạm Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc
dân, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học
Điện lực, Đại học CNTT thuộc Đại học
Quốc gia TP. HCM, Đại học Quốc tế Sài
Gòn, Đại học Vinh... Trong đó, ngành
KHMT của Đại học Công nghệ (Đại học
Quốc gia Hà Nội) đƣợc triển khai đào tạo
theo CTTT thuộc đề án của Đại học QGHN
phát triển 16 ngành và 23 chuyên ngành
đào tạo đạt trình độ quốc tế (Đề án 16+23).
Còn Trƣờng Đại học Hà Nội, ngành KHMT
của trƣờng đƣợc xây dựng chú trọng khả
năng ứng dụng thông tin, sử dụng CNTT
trong quản lí kinh tế, xã hội... Cử nhân
KHMT của Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc
dân đƣợc đào tạo có kiến thức chuyên sâu
về ngành KHMT, thành thạo những kĩ năng
cần thiết trong lĩnh vực CNTT và truyền
thông, có khả năng thích ứng tốt với môi
trƣờng công việc thay đổi. Chƣơng trình cử
PHAN LÊ NA
nhân KHMT của Trƣờng Đại học Quốc tế
Sài Gòn là chƣơng trình kết hợp giữa lí
thuyết và thực tiễn của ngành KHMT, trang
bị cho sinh viên những kiến thức và kĩ năng
cần thiết để thích nghi với thế giới CNTT.
Sinh viên có khả năng lập trình, khả năng
phát triển hệ thống máy tính, thiết kế phần
mềm và thiết lập các hệ thống xử lí thông
tin và ngoại ngữ phải đạt trình độ TOEIC
quốc tế 500. Tại Trƣờng Đại học Vinh,
khoa CNTT đang triển khai CTTT theo Dự
án Giáo dục đại học pha II (do Ngân hàng
thế giới tài trợ). Sau khi tốt nghiệp chuyên
ngành KHMT sinh viên có thể làm việc với
các chức danh: Cán bộ nghiên cứu, ứng
dụng CNTT hoặc cán bộ giảng dạy ở các
trƣờng ĐH, CĐ, TCCN; cán bộ quản lí và
thực hiện các dự án CNTT ở các cơ quan,
công ty.
3. TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH VỚI VIỆC
XÂY DỰNG CTTT CHUYÊN
NGÀNH KHMT
Ngày 11/7/2011, Phó Thủ tƣớng Chính
phủ Nguyễn Thiện Nhân đã kí Công văn số
1136/TTg-KGVX về việc bổ sung Đại học
Vinh vào danh sách các trƣờng đại học xây
dựng thành trƣờng đại học trọng điểm quốc
gia. Thực ra, trƣớc thời điểm này nhiều
năm, Trƣờng Đại học Vinh đã có những
nỗ lực nâng cao chất lƣợng đào tạo, phấn
đấu xây dựng một số ngành đạt chuẩn khu
vực và quốc tế nhƣ ngành CNTT, ngành
xây dựng dân dụng và công nghiệp. Mặc
dù không nằm trong Đề án thí điểm thực
hiện đào tạo CTTT nhƣng nhà trƣờng đã
chủ động có những bƣớc đi thích hợp để
xây dựng và triển khai một số CTTT.
Trƣờng đã cử hàng chục cán bộ, trong đó
có cán bộ khoa CNTT đi học thạc sĩ, tiến sĩ
ở nƣớc ngoài theo diện hiệp định, diện hợp
tác giữa các trƣờng và bằng ngân sách nhà
nƣớc. Đại học Vinh cũng đã mời nhiều
giáo sƣ từ Hoa Kì, Hà Lan, Ba Lan, Hàn
Quốc, Nhật bản, Trung Quốc.... đến giảng
dạy, hợp tác khoa học nhằm xây dựng các
CTTT, trong đó có chƣơng trình CNTT.
Nhà trƣờng và Khoa chủ động tham khảo
chƣơng trình của một số trƣờng đại học ở
Hoa Kì (South Florida, New Mexico,
Arizona), Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Pháp, Ba Lan, Hà Lan... để xây dựng
chƣơng trình khung, chƣơng trình chi tiết
các học phần, tìm hiểu tài liệu, giáo trình
các môn học. Cách thức tổ chức đào tạo,
phƣơng pháp giảng dạy, đánh giá sinh viên
đã có nhiều đổi mới phù hợp với điều kiện
của trƣờng cũng nhƣ phù hợp với các
chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Với nguồn vốn của Dự án Giáo dục đại
học, trƣờng hƣớng tới triển khai các CTTT
cho 4 ngành đào tạo là Xây dựng, CNTT,
Điện tử viễn thông và Kinh tế. Các Khoa
đã có vài chục lƣợt cán bộ đi thực tế đến
các trƣờng đại học trên thế giới để tìm hiểu
cách tổ chức cũng nhƣ xây dựng CTTT.
Ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp,
với sự giúp đỡ của các chuyên gia Hà Lan
từ Trƣờng Đại học Hanze đã xây dựng
đƣợc chƣơng trình đào tạo mới theo định
hƣớng nghề nghiệp. Các ngành CNTT,
Nông - Lâm - Ngƣ, Sinh - Hoá đã đƣợc
tăng cƣờng cơ sở vật chất, tăng cƣờng đầu
tƣ năng lực nghiên cứu, đào tạo.
Tại Trƣờng Kĩ thuật Công nghệ Ira A.
Fulton (trƣờng thành viên của Đại học
Bang Arizona (ASU), Hoa Kì) có khoa
CNTT với CTTT rất phù hợp với chƣơng
trình mà Trƣờng Đại học Vinh đang xây
dựng và triển khai. CTTT của Arizona đào
tạo 4 năm cho hệ kĩ sƣ. Chuyên ngành
KHMT là một trong 4 ngành CNTT: Khoa
học Máy tính, Kĩ thuật Máy tính, Tin học,
Hệ thống thông tin. Chƣơng trình đào tạo
của KHMT có liên quan với thiết kế máy
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TIÊN TIẾN CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC MÁY TÍNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
tính, quá trình tính toán và chuyển giao
chuyển đổi thông tin, thiết kế và phân tích
phần mềm cho nhiều ứng dụng khác nhau,
bao gồm mạng lƣới, đồ hoạ, trí tuệ nhân
tạo và các hệ thống cơ sở dữ liệu. Chƣơng
trình đào tạo cũng tập trung vào việc cải
thiện độ tin cậy phần mềm, hệ thống an
ninh mạng hoặc tìm kiếm thông tin, tìm
hiểu thiết kế hệ thống máy tính thế hệ mới,
mạng máy tính, hệ thống thông tin y sinh
học, hệ thống chơi game, công cụ tìm
kiếm, trình duyệt Web và các hệ thống gói
phân phối máy tính. Khoa có 14 cơ sở máy
tính và các quan hệ đối tác nghiên cứu về
mô hình hoá không gian, có Trung tâm
máy tính nhận thức, Trung tâm Nghiên cứu
thông tin y tế và Hiệp hội Hệ thống nhúng.
Đây là những nơi cho sinh viên đến thực
tập. Trƣờng Kĩ thuật Ira A. Fulton đang
hợp tác với các cộng đồng học thuật của
Intel tích hợp máy tính song song vào
KHMT và kĩ thuật, Toán học, Khoa học
chƣơng trình thống kê, Tính toán với hiệu
suất cao (High Performance Computing
Initiative) để cấp bằng đại học và bằng thạc
sĩ. Sinh viên chuyên ngành KHMT có thể
giải quyết tốt các vấn đề kĩ thuật, có tƣ duy
phân tích và sáng tạo. Các môn học đòi hỏi
sinh viên áp dụng các nguyên tắc thiết kế
và phát triển trong việc xây dựng các hệ
thống phần mềm phức tạp khác nhau. Do
đó, ngoài các môn chuyên ngành KHMT
nhƣ Phân tích và thiết kế thuật toán, Toán
rời rạc, Lí thuyết ngôn ngữ hình thức,
Chương trình dịch, Trí tuệ nhân tạo, Đồ
hoạ máy tính, Xử lí ngôn ngữ tự nhiên, Hệ
điều hành, Tương tác người máy, An toàn
thông tin, Mạng máy tính, Kiến trúc máy
tính, Cấu trúc dữ liệu và lập trình hướng
đối tượng, sinh viên còn đƣợc học thêm
các môn nhƣ: Quản lí cơ sở dữ liệu, Tổ
chức máy tính và lập trình hợp ngữ, Ứng
dụng đại số tuyến tính, Xử lí ảnh video, Đa
phương tiện, Cơ sở dữ liệu tiên tiến, Lập
trình hệ thống, Công nghệ phần mềm, Dữ
liệu và bảo mật thông tin, Công nghệ phần
mềm Chƣơng trình đào tạo tăng cƣờng
sự lựa chọn trong việc đăng kí môn học.
Các môn lựa chọn đƣợc chia làm hai loại:
lựa chọn kĩ thuật (Technical Elective) và
lựa chọn khoa học (Science Elective). Các
môn học này có thể là môn học của khoa
chuyên ngành hoặc của các khoa liên quan
và có thể thay đổi hàng năm. Một sinh viên
chuyên ngành KHMT (CS) có thể lựa chọn
một số tín chỉ bên Toán học (MAT) hoặc
Công nghệ sinh học (BME) Sinh viên tốt
nghiệp cử nhân KHMT có thể tìm các việc
làm liên quan đến máy tính và phần mềm
thiết kế phát triển CNTT. Công việc
thƣờng đƣợc phân biệt bởi mức độ cao về
chuyên môn lí thuyết, cách giải quyết các
vấn đề phức tạp, sự sáng tạo và ứng dụng
công nghệ mới. Một số công việc hấp dẫn
là tạo các trò chơi video và hệ thống, thiết
kế hệ thống trí tuệ nhân tạo, phát triển các
ứng dụng an ninh mạng, phát minh và thực
hiện hiệu quả hơn hệ thống quản lí dữ liệu.
Theo kết quả điều tra của 15 ngành kĩ sƣ
sau khi tốt nghiệp Đại học ở Hoa Kì thì
chuyên gia ngành KHMT thu nhập cao
đứng vị trí thứ năm.
Đào tạo sinh viên CNTT có khả năng
đáp ứng đƣợc nhu cầu xã hội là điều cần
thiết và cấp bách. Hiện nay trƣờng Đại học
Vinh đặt ra yêu cầu đào tạo sinh viên
CNTT vừa có trình độ ngoại ngữ vừa có
chuyên môn ngang tầm khu vực và quốc tế.
Xây dựng CTTT nhằm đẩy mạnh công tác
nghiên cứu khoa học trong cán bộ và sinh
viên, có thêm nhiều suất học bổng cho sinh
viên, xây dựng hệ thống trao đổi giảng
PHAN LÊ NA
viên, sinh viên trong nƣớc và quốc tế, tạo
cơ chế cụ thể để các doanh nghiệp có thể
đóng góp vào đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực cho đất nƣớc. Hơn nữa tăng
cƣờng sự phối hợp giữa sinh viên với nhà
tuyển dụng để giải quyết đầu ra cho sinh
viên tốt nghiệp của Nhà trƣờng. Chuyên
ngành KHMT sẽ hƣớng tới sự liên kết
mạnh mẽ giữa máy tính và nhiều lĩnh vực
của đời sống. Chƣơng trình đào tạo sẽ tập
trung kiến thức chuyên ngành phù hợp với
yêu cầu của CNTT, nắm vững một trong
các công nghệ lập trình tiên tiến và có đủ
tri thức, khả năng để tiếp cận với công
nghệ mới theo chuyên ngành đƣợc đào tạo.
Chuyên ngành KHMT tăng thêm các môn
tự chọn thuộc chuyên ngành KHMT hoặc
sinh viên đƣợc đăng kí các môn của
chuyên ngành khác nhƣ: Kĩ thuật máy tính,
Mạng và truyền thông hay Hệ thống thông
tin gồm các môn Công nghệ phần mềm, Xử
lí ảnh video, Học máy, Tổ chức máy tính và
lập trình hợp ngữ, Cơ sở dữ liệu tiên tiến,
Hệ nhúng trên không gian thực, Đồ hoạ
nâng cao, Hệ thống an ninh mạng máy
tính, Tương tác người máy, Xử lí song
song,... Ngoài ra cần tăng cƣờng khả năng
thực hành và tự học, tự nghiên cứu cho
sinh viên.
Khoa CNTT, Trƣờng Đại học Vinh đã
liên kết đào tạo với Đại học bang Arizona
(ASU), Đại học New Mexico của Hoa Kì,
Đại học Saga của Nhật Bản, trong vấn
đề trao đổi cán bộ giảng dạy. Về đội ngũ
cán bộ giảng dạy, hiện nay khoa CNTT có
10 cán bộ làm NCS trong nƣớc và nƣớc
ngoài (Nhật Bản, Hoa Kì, Đức, Hàn Quốc,
Trung Quốc). Đây chính là sự chuẩn bị đội
ngũ chất lƣợng cao trong vòng hai, ba năm
tới nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy các
môn học bằng tiếng Anh và thực hiện
CTTT.
Ngày 22/9/2010, Thủ tƣớng Chính phủ
đã phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm
trở thành nước mạnh về CNTT-TT”. Đề án
này hi vọng sẽ thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của CNTT-TT ở nƣớc ta. Trƣờng Đại
học Vinh đƣợc Chính phủ đƣa vào danh
sách 16 trƣờng đại học xây dựng thành
trƣờng đại học trọng điểm quốc gia sẽ là
một thuận lợi lớn để triển khai các CTTT.
Với đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ
cao, đƣợc tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất,
đƣợc sự giúp đỡ của nhiều trƣờng đại học
có danh tiếng trên thế giới, trong đó có
Trƣờng đại học bang Arizona – Hoa Kì, hi
vọng trong tƣơng lai không xa, một số
CTTT, trong đó có chƣơng trình của nhóm
ngành CNTT sẽ đƣợc triển khai ở trƣờng
Đại học Vinh.
Bài báo được tài trợ của Dự án Giáo
dục đại học pha II (Ngân hàng thế giới).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bước tạo đà cho nâng cao chất lượng giáo dục đại học, Báo Giáo dục và thời đại, (số
208), ngày 30/12/2010
2. Đinh Xuân Khoa, Đại học Vinh hướng tới đào tạo theo các chương trình tiên tiến, Báo
GD&TĐ, 30/12/2010 (
3.