Chúng ta không rõ có bảo tàng nào, sưu tập nào còn giữ
lại được bánh xe gỗ đặc hay không, vì nó là sản phẩm lâu
đời cũng như được sử dụng đến hàng ngàn năm ở Việt
Nam.
8 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2067 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xe đẩy bánh gỗ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xe đẩy bánh gỗ
Chúng ta không rõ có bảo tàng nào, sưu tập nào còn giữ
lại được bánh xe gỗ đặc hay không, vì nó là sản phẩm lâu
đời cũng như được sử dụng đến hàng ngàn năm ở Việt
Nam.
1. Trước thế kỷ 20, phương tiện vận chuyển hàng hóa của
người Việt rất thô sơ, thuộc loại lạc hậu nhất thế giới bấy giờ.
Để vận chuyển nhiều và nặng cách thức duy nhất là chở bằng
thuyền, kể cả chuyên chở đá cho xây dựng với những tảng
lớn, người ta dùng con lăn đưa lên bè và đưa đến gần địa
điểm bằng đường sông.
Buôn bán trên sông bằng đò dọc trở thành một hoạt động
chuyên nghiệp. Vì rất lắm sông ngòi cắt ngang chiều dọc của
đất nước, và từ những con sông, người ta có thể đi tới mọi
địa phương hẻo lánh.
Vận chuyển trên bộ, ngoài xe trâu, xe bò và xe ngựa thực ra
cũng không quá phổ biến, vì trâu bò cũng rất đắt, giá công
vận chuyển lại không cao, nên gánh gồng và đội hàng theo
người lại đặc trưng cho lối sinh sống và buôn bán lẻ. Người
nông dân Việt Nam có thể gánh khá nặng, ba bốn mươi cân
là bình thường, năm bảy mươi cân là gánh khỏe, đặc biệt có
người gánh đến một tạ. Gánh nước, gánh lúa, gánh củi, gánh
hàng hóa là hoạt động thường ngày, nên hầu hết mọi người
đều gánh được.
Xe đẩy tay. Ảnh tư liệu
2. Một phương tiện thông dụng nhất trong làng xã và các thị
xã là xe đẩy tay, một bánh. Đây là loại xe tối cổ ở phương
Đông có lẽ đến hơn hai ngàn năm tuổi. Chúng rất thô sơ, gồm
hai càng dài, gắn với một bánh xe làm từ một khoanh tròn
của cây gỗ phía đầu. Hai càng dài mở rộng về phía sau cho
một người cầm hai tay và đẩy bánh đi về phía trước. Hàng
hóa được chất lên hai càng xe đó.
Cấu tạo đơn giản của xe đẩy tay chỉ là như vậy, và trong quá
trình vận chuyển hàng với con người nó cũng được cải tiến
vài lần. Cũng như xe ngựa, bánh đặc bằng một phiến gỗ tròn
khá nặng, độ ma sát lớn, nên tốc độ không cao, người ta cải
tiến sang bánh rỗng gồm một vành tròn có trục trung tâm nối
với nhau bằng các nan hoa. Xe đẩy tay cũng được cải tiến
bằng bánh nan hoa, tuy vậy trong làng xã Việt Nam cổ, ngay
cả việc làm bánh xe nan hoa cũng khó khăn, và người nông
dân cũng không muốn cải tiến gì cả nên cứ dùng bánh gỗ đặc
cho đến tận đầu thế kỷ 20.
Khi công nghệ sắt thép phát triển, xe bánh đẩy làm bằng sắt
cũng được dùng phổ biến trong các công trường. Hai càng
được gắn một bầu đựng, đầu càng có một bánh xe sắt, có nan
hoa và trục bôi trơn. Tuy vậy cái xe này cũng kêu cút kít mỗi
khi lăn bánh, nên được gọi chính bằng cái tên cút kít.
Trong cuốn sách Le Tonkin En 1900 (Bắc Kỳ năm 1900) của
R.Ruboi (Paris, 1900) có chụp vài ảnh về nông dân Bắc Bộ
vận chuyển hàng bằng xe đẩy một bánh. Người ta đặt một
mặt sàn tre gỗ vào hai càng, nên có thể chất nhiều hàng, thậm
chí là hai bồ đựng lớn. Dưới càng gần người đẩy có hai chân
chống, khi nghỉ, dựng xe tại chỗ, xe vẫn đứng được. Chiếc xe
bánh đẩy này cũng được vẽ lại trong cuốn Kỹ thuật của người
An Nam, của Henri Oger. Người Trung Quốc khi dùng xe
bánh đẩy có một cải tiến khá kỳ lạ tức là gắn một cột và cánh
buồm vào xe, nếu đi xuôi theo chiều gió, sẽ giúp đẩy xa đi
nhanh hơn.
Có rất nhiều sản phẩm vốn được coi là phát minh của xã hội
nông nghiệp, như cái guồng nước, cối giã nước, bánh xe, bàn
xoaynhững vật tiền thân của động cơ. Tuy nhiên, dù du
nhập từ nước ngoài hay được sáng chế từ trong nước, chúng
rất ít được cải tiến, ứng dụng nhiều mặt, mà tồn tại lưu cữu,
nhất là trong làng xã với phương thức canh tác cổ xưa.
Cái bánh xe gỗ đặc là một sản phẩm đặc trưng theo kiểu Việt
Nam đó, dù nhân loại đã chuyển sang dùng bánh xe nan hoa
ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, thế kỷ 5 - 4 trước Công nguyên.
Có lẽ nó giữ nguyên các đặc tính từ hồi người ta nghĩ ra loại
xe đó cho đến đầu thế kỷ 20, ngay cả khi cái xe này biến mất
trong đời sống nông dân thì hình thù cũng không thay đổi gì,
cũng có thể cách vận chuyển bằng một người đẩy không
thích hợp nữa.
3. Xe tay là sản phẩm thứ hai cũng là loại xe lôi hay đẩy có
hai bánh, sau này được dùng phổ biến ở nông thôn thời chiến
tranh, gọi là xe cải tiến. Thoạt tiên nó y hệt là cái xe trâu, xe
ngựa có hai càng, hai bánh nhưng không do gia súc kéo, mà
kéo bằng người.
Nghề chạy xe tay đưa đón khách phát triển ở Hà Nội và Sài
Gòn trong thời Pháp thuộc, và cũng phát triển ở toàn bộ châu
Á, trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ. Những ông Tây bà
đầm và cánh công chức có tiền quan trọng đi rừng núi sẽ thuê
cáng, còn đi trong thành phố sẽ thuê xe tay, một câu chuyện
được nhà văn Nguyễn Công Hoan phản ánh trong Người
ngựa, ngựa người.
Cho đến những năm 1970, nhiều người lao động ở Hà Nội
vẫn kéo thuê xe tay chở hàng, gọi là xe ba gác, còn xe tay
kéo người đã chấm dứt ít nhất khoảng những năm 1950, thay
vào đó là xe xích lô đạp.
Ở nông thôn xe ba gác là phương tiện vận chuyển quan trọng,
chở củi, thóc, rơm rạ, thậm chí là chở người lên bệnh viện.
Sau này do xe ba gác bộ bánh gỗ quá nặng đi lại khó khăn
người ta cải tiến lắp bánh xe lốp hơi và giảm thể tích xe cho
gọn gàng, một người phụ nữ cũng kéo được, nhất là trong
chiến tranh khi đàn ông ra trận hết.
Chúng ta không rõ có bảo tàng nào, sưu tập nào còn giữ lại
được bánh xe gỗ đặc hay không, vì nó là sản phẩm lâu đời
cũng như được sử dụng đến hàng ngàn năm ở Việt Nam.