Bài luận Những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện của luật hôn nhân gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng

A. MỞ BÀI Chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm các qui định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng; căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng.Kế thừa và phát triển các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Nhà nước ta (các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 95) đã qui định chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng tương đối cụ thể và có nhiều điểm mới. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng những năm qua góp phần vào sự ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về chế độ tài sản của vợ chồng cho thấy còn khá nhiều bất cập và vướng mắc. Vậy, chúng ta cùng tìm hiểu những vướng mắc, bất cập đó và đưa ra phương hướng hoàn thiện quy định luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng.

doc18 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài luận Những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện của luật hôn nhân gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI: TÌM HIỂU NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HNGĐ VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG A. MỞ BÀI Chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm các qui định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng; căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng...Kế thừa và phát triển các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Nhà nước ta (các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 95) đã qui định chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng tương đối cụ thể và có nhiều điểm mới. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng những năm qua góp phần vào sự ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về chế độ tài sản của vợ chồng cho thấy còn khá nhiều bất cập và vướng mắc. Vậy, chúng ta cùng tìm hiểu những vướng mắc, bất cập đó và đưa ra phương hướng hoàn thiện quy định luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng. B. NỘI DUNG I.Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình 2000. 1. Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. 1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm: “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. 2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. - Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong thời kỳ hôn nhân. Theo Khoản 7 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình thì: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại của quan hệ vợ chồng trước pháp luật, việc kết hôn phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhân theo đúng thủ tục và các điều kiện luật định. Những tài sản (gồm bất động sản và động sản) do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (trừ tài sản riêng của vợ, chồng) đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, pháp luật chỉ quy định tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh tài sản mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi người vào việc tạo dựng và phát triển khối tài sản chung. Có thể do điều kiện sức khoẻ, đặc điểm công việc và nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ chồng vào khối tài sản chung là không bằng nhau, nhưng quyền sở hữu của họ với tài sản là ngang nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do công sức của cả hai vợ chồng trức tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Bao gồm: Tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là loại tài sản phổ biến trong khối tài sản chung , Hành vi “tạo ra” tài sản có nghĩa là vợ chồng dựa vào công việc, chuyên môn của mình để trực tiếp làm ra tài sản đó hay dùng tiền để có những tài sản đó như: xây nhà ở, làm ra đồ dùng sinh hoạt (bàn ghế, giường, tủ,…),…Hoặc thông qua những hợp đồng mua sắm các tài sản đó, hoặc để đầu tư, kinh doanh. //Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đây là loại tài sản chủ yếu thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Đó là những lợi ích vật chất mà vợ, chồng có được do tham gia lao đông, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hay đó còn là việc vợ chồng được hưởng những thành quả lao động, lợi nhuận kinh doanh mang lại, các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản của vợ chồng trong quá trình sản xuất, kinh doanh. //Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung. Đây là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa trên sự định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế theo Điều 245, Điều 631 và Điều 686 Luật dân sự 2005. //Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn, được quy định cụ thể trong Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ: Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hay chồng được Nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối; đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lăm nghiệp để trồng rừng, đất ở được Nhà nước giao,…). Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hay chỉ một bên được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản chung của vợ chồng đối với đất mà vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của người khác. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. - Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm nhiều tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung; những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng. Sau nhiều năm chung sống trong quan hệ vợ chồng, cùng chung sức tạo dựng tài sản chung của vợ chồng, và thực hiện quyền sở hữu quyền sở hữu đối với tài sản vì lợi ích gia đình. Tuy nhiên, khi tranh chấp giữa vợ chồng xảy ra thì rất khó để chứng minh những tài sản thuộc khối tài sản chung là tài sản riêng của mỗi bên. Vì vây, giữa vợ chồng có thể thoả thuận với nhau đâu là tài sản chung và tài sản riêng, việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung có thể mặc nhiên hoặc bằng văn bản. Nhưng thực tế xét xử những vụ việc tranh chấp tài sản giữa vợ chồng thì ranh giới phân định tài sản chung với tài sản riêng là rất khó khăn, nên dựa trên nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản, thì Luật hôn nhân và gia đình đã quy định theo Khoản 3 Điều 2 như sau: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. Vậy nên dựa vào “thời kỳ hôn nhân” và nguồn gốc các loại tài sản, nhà làm luật đã sử dụng nguyên tắc suy đoán để đảm bảo được công bằng trên cơ sở lợi ích chung của vợ chồng và gia đình. 1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung. - Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt như theo Điều 28 của Bộ luật hôn nhân và gia đình: “1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. 3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này”. Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải có sự bàn bạc, thoả thuận giữa hai người. Đối với tài sản có giá trị không lớn lắm hoặc phục vụ cho nhu cầu hàng ngày thì chỉ cần một bên thực hiện và bên còn lại đồng ý. Còn trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ có một bên thực hiện giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì bên còn lại phải chịu trách nhiệm liên đới, theo quy định tại Điều 25 của Luật này: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. - Đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng: Đối với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị khác…thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả hai vợ và chồng. Đây chính là căn cứ pháp luật để xác định tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp xảy ra. 1.3. Chia tài sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình 2000. Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật hôn nhân và gia đình đã quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, bao gồm: - Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình có quy định: “1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. 2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”. Như vậy, luật hôn nhân và gia đình 2000 đã nêu rõ hơn về những trường hợp (điều kiện) để vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng( vì việc đầu tư kinh doanh cần phải “chớp thời cơ” để đạt hiểu quả cao nhất, nhưng có thể đem lại rủi ro cao,…),hay vì do mâu thuẫn sâu sắc nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng và muốn yêu cầu chia tài sản chung, hay yêu cầu chia để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng ( như trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân vợ hoặc chồng đã vay nợ để phục vụ cho lợi ích cá nhân,…). Luật còn quy định rõ về phương diện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, cho phép hai vợ chồng tự thoả thuận chia tài sản chung bằng văn bản hoặc yêu cầu Toà án giải quyết. Việc chia tài sản trong trường hợp này là một ngoại lệ, quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng cũng như quyền lợi của những người khác có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. - Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn, được quy định rõ trong Điều 95 luật hôn nhân và gia đình 2000. Theo Khoản 1 Điều 95 quy định thì đối với tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Nếu có tranh chấp về tài sản riêng, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì phải có nghĩa vụ chứng minh (bằng sự công nhân của bên kia hoặc giấy tờ xác nhận quyền sở hữu của mình), nếu không chứng minh được thì tài sản đó là tài sản chung (Khoản 3 Điều 27 quy định). - Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết. Quan hệ hôn nhân chấm dứt tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của người vợ, chồng còn sống hoặc những người thừa kế của người vợ, chồng đã chết. Theo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, trong đó có quan hệ thừa kế tài sản của nhau giữa vơ chồng. Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình coa quy định: Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định về thừa kế. Mà theo luật dân sự có quy định hai hình thức thừa kế đó là thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. 2. Tài sản riêng của vợ chồng. 2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ chồng. Theo Khoản 1 Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. 2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Như vậy, tài sản riêng của vợ, chồng được xác lập dựa vào thời điểm phát sinh trước khi kết hôn; dựa vào sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản đã chuyển dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng trên sự kiện chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Nên tài sản riêng của vợ, chồng gồm: - Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có từ trước khi kết hôn. - Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân. - Tài sản riêng của vợ, chồng gồm đồ dùng, tư trang cá nhân. - Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà vợ chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. - Tài sản riêng của vợ, chồng còn (có thể) gồm những tài sản mà vợ, chồng thoả thuận là tài sản riêng của một bên. 2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng. - Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng. Theo quy định của Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình thì với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình thì ng ười vợ hoặc chồng có toàn quyền sở hữu như định đoạt, chiếm hữu, sử dụng tài sản đó mà không bị phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Trong trường hợp không thể tự quản lý tài sản của mình thì có thể uỷ quyền cho người vợ, chồng kia quản lý tài sản riêng đó như theo Khoản 2 Điều 33 Luật này. Trong khi được quản lý tài sản riêng đó thì người vợ, chồng này có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản đó, nếu làm hư hại mà không có lý do chính đáng thì phải bồi thường khi có yêu cầu của người uỷ quyền. Trường hợp một bên tự ý định đoạt tài sản riêng của bên vợ, chồng kia để tham gia giao dịch dân sự thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. - Nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng. Với tư cách chủ sở hữu tài sản của mình người vợ, chồng được hưởng toàn quyền sở hữu tài sản đó, thì đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình liên qua tới tài sản riêng đó, như: Được sử dụng vào nhu cầu thiết yếu của gia đình khi tài sản chung không đủ đáp ứng. Hay để thực hiện nghĩa vụ riêng, và theo luật quy định những nghĩa vụ riêng đó là: trả nợ khi vay trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân nhưng phục vụ cho nhu cầu riêng; trả nợ phát sinh trong khi sử dụng, định đoạt, chiếm hữu tài sản riêng trừ trường hợp khi vợ, chồng tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó trong thời kỳ hôn nhân mà không thoả thuận những hoa lợi đó vẫn thuộc tài sản riêng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi làm hư hại tẩu tán di sản thừa kế khi là người quản lý tài sản đó; các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như chi phí cho con riêng; nghĩa vụ cấp dưỡng các thành viên trong gia đình; hay bồi thường khoản cấp dưỡng đã làm tiêu tán khi được giao quản lý; khoản nợ phát sinh khi tự ý tiến hành giao dịch dân sự liên quan đến tài sản có giá trị lớn hay là nguồn sống duy nhất của gia đình; bồi thường thiệt hại đối với hành vi trái pháp luật của người vợ, chồng. II.Những vướng mặc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng. Mặc dù, đã có khá nhiều văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định, hướng dẫn áp dụng về chế độ tài sản của vợ chồng, nhưng do tính chất phức tạp và rất "nhạy cảm" từ các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, trong đó có các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng. Thực tiễn áp dụng đã có nhiều quan điểm, nhận thức, đánh giá khác nhau, chưa có sự thống nhất từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cá nhân thực thi pháp luật, liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Trong báo cáo tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử của ngành Tòa án hàng năm, hầu như đều có các vấn đề về xác định và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng. Điều đó cho thấy các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng luôn là loại việc phức tạp, thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng, hạn chế và có nhiều bất cập trong công tác thi hành án liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Nguyên nhân có nhiều, trong đó phải kể đến một số qui định của Luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng mới chỉ dừng lại ở tính chất định khung, nguyên tắc chung; các văn bản qui định chi tiết thi hành và hướng dẫn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng còn thiếu, chưa cụ thể, chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Thực tiễn áp dụng những quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Căn cứ vào thực tiễn xét xử của toà án, đặc biệt qua công tác kiểm tra xét xử, công tác xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà àn nhân dân tối cao cho thấy, việc vận dụng các căn cứ chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong luật hôn nhân và gia đình vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc hoặc thiếu sót tập trung ở các vấn đề sau: 1.1. Công nhận sự thoả thuận của vợ chồng trong giải quyết các tranh chấp về tài sản. Theo Khoản 1 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình thì pháp luật hôn nhân tôn trọng và thừa nhận sự thoả thuận của vợ chồng là căn cứ đầu tiên, quyết định trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Trên thực tế, Toà án nhân dân các cấp đã vận dụng căn cứ này vào giải quyết các tranh chấp đạt hiệu quả rất tốt. Tuy nhiên, từ quy định mang tính nguyên tắc trên, trong thực tiễn áp dụng phát sinh hai quan điểm: thứ nhất, có quan điểm cho rằng khi vợ chồng không có tranh chấp về tài sản chung, họ tự thoả thuận thì toà án không có nghĩa vụ phải xác minh, điều tra, định giá mà đơn thuần chỉ căn cứ vào lời khai của các đương sự để giải quyết chia theo pháp luật hoặc chia theo sự thoả thuận. Ngược lại, có quan điểm cho là toà án luôn tôn trọng sự thoả thuận của các bên, nhưng vẫn phải tiến hành xác minh, điều tra tính phù hợp pháp luật và đạo đức của thoả thuận đó. Một số Toà án trong quá trình giải quyết tranh chấp, do chú trọng sự thoả thuận của vợ chồng mà đã công nhận những thoả thuận bất thường, như thoả thuận có liên quan đến tài sản thuộc sở hữu của người khác, tài sản vợ, chồng chưa có căn cứ xác lập quyền sở hữu…Có vụ việc Toà án công nhận sự thoả thuận về tài sản trong khi đương sự đang phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản hoặc đang là bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự mà không tiến hành điều tra, xác minh lại hay không trưng cầu ý kiến của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, tạo điều kiện cho đương sự tẩu tán tài sản gây khó khăn cho công tác giải quyết án hình sự, gây thiệt hại về tài sản cho Nhà nước và công dân. Cũng có vụ việc, Toà án công nhận thoả thuận về tài sản của đương sự trong khi họ đang vay nợ của rất nhiều người, gây ra sự phản ứng và khiếu kiện kéo dài của các chủ nợ. Từ thực tế trên, một vấn đề đặt ra bản thân toà án cũng không biết tài sản chung của vợ chồng thực sự là bao nhiêu, ở đâu, có nguồn gốc hợp pháp không để chia cho đúng…nếu các đương sự không tranh chấp, không khai về tài sản chung. Dù theo quy đinh của pháp luật hiện hành, Toà án chỉ có trách nhiệm điều tra, xác minh khi các đương sự có yêu cầu phân chia tài sản. Nhưng theo tôi, Toà án có quyền xác điều tra, xác minh lại thoả thuận của các đương sự nếu thoả thuận đó có dấu hiệu lừa dối,cưỡng ép hay liên quan đến tài sản có tranh chấp, hay thực hiện thoả thuận để trốn tránh nghĩa vụ tài sản. Đồng thời cần có sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin, chứng cứ để chứng minh thoả thuận là hợp pháp. 1.2. Xác định thời điểm và nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồ