Trong một vài năm gần đây nghiệp vụ tư vấn cổ phần hoá là một trong
những nghiệp vụ mang lại doanh thu lớn cho các công ty chứng khoán.Vì vậy,
sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán trong việc tìm kiếm khách hàng
ngày càng quyết liệt. Hiện nay, không chỉ nhờ các mối quan hệ, hay mức phí
mà việc cạnh tranh chủ yếu dựa trên các dịch vụ cung cấp.
Quá trình tư vấn cổ phần bao gồm nhiều công việc được công ty chứng
khoánchia thành các giai đoạn (các khâu) trong đó khách hàng có thể lựa
chọn mua từng phần, hoặc mua trọn gói. Việc xác định giá trị doanh nghiệp
có vai trò quyết định đối với toàn bộ tiến trình cổ phần hoá, khâu này thường
chiếm một thời gian lớn trong toàn bộ tiến trình thực hiện nghiệp vụ tư vấn cổ
phần hoá đối với công ty chứng khoán. Để giảm bớt thời gian trong việc xác
định giá trị doanh nghiệp công ty chứng khoán cần phải lựa chọn được
phương pháp thích hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp đồng thời với mỗi
phương pháp cần phải nắm được những điểm mạnh, điểm yếu và điều kiện áp
dụng từng phương pháp, tính khả thi khi áp dụng ở Việt Nam.
Nghị định 187/NĐ-CP ra đời thay thế nghị định 64 đã tạo ra hành lang
pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp đổi mới hình thức sở hữu của các doanh
nghiệp.Theo đó quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, tính đến hết tháng
12/2004 đã có hơn 2500 doanh nghiệp được chuyển thành công ty cổ phần.
Tuy nhiên số lượng đó mới chỉ chiếm khoảng 25% số doanh nghiệp hiện có ở
nước ta.
Trong năm 2005 chính phủ và bộ tài chính đã đề ra mục tiêu phải cổ
phần hoá được 750 doanh nghiệp. Để hoàn thành mục tiêu này thì việc xác
định giá trị doanh nghiệp tại các công ty chứng khoán cần phải được rút ngắn
thời gian nhưng chất lượng vẫn được nâng cao tránh thất thoát nguồn vốn của
nhà nước, đồng thời thu hút được nhiều khách hàng.
84 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp cần thực hiện để mở rộng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Mê Kông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Đề tài: Các phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp, những phương pháp đang được áp dụng tại các
công ty chứng khoán, ưu nhược điểm của từng phương
pháp. Tính khả thi khi áp dụng những phương pháp mới.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong một vài năm gần đây nghiệp vụ tư vấn cổ phần hoá là một trong
những nghiệp vụ mang lại doanh thu lớn cho các công ty chứng khoán.Vì vậy,
sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán trong việc tìm kiếm khách hàng
ngày càng quyết liệt. Hiện nay, không chỉ nhờ các mối quan hệ, hay mức phí
mà việc cạnh tranh chủ yếu dựa trên các dịch vụ cung cấp.
Quá trình tư vấn cổ phần bao gồm nhiều công việc được công ty chứng
khoán chia thành các giai đoạn (các khâu) trong đó khách hàng có thể lựa
chọn mua từng phần, hoặc mua trọn gói. Việc xác định giá trị doanh nghiệp
có vai trò quyết định đối với toàn bộ tiến trình cổ phần hoá, khâu này thường
chiếm một thời gian lớn trong toàn bộ tiến trình thực hiện nghiệp vụ tư vấn cổ
phần hoá đối với công ty chứng khoán. Để giảm bớt thời gian trong việc xác
định giá trị doanh nghiệp công ty chứng khoán cần phải lựa chọn được
phương pháp thích hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp đồng thời với mỗi
phương pháp cần phải nắm được những điểm mạnh, điểm yếu và điều kiện áp
dụng từng phương pháp, tính khả thi khi áp dụng ở Việt Nam.
Nghị định 187/NĐ- CP ra đời thay thế nghị định 64 đã tạo ra hành lang
pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp đổi mới hình thức sở hữu của các doanh
nghiệp.Theo đó quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, tính đến hết tháng
12/2004 đã có hơn 2500 doanh nghiệp được chuyển thành công ty cổ phần.
Tuy nhiên số lượng đó mới chỉ chiếm khoảng 25% số doanh nghiệp hiện có ở
nước ta.
Trong năm 2005 chính phủ và bộ tài chính đã đề ra mục tiêu phải cổ
phần hoá được 750 doanh nghiệp. Để hoàn thành mục tiêu này thì việc xác
định giá trị doanh nghiệp tại các công ty chứng khoán cần phải được rút ngắn
thời gian nhưng chất lượng vẫn được nâng cao tránh thất thoát nguồn vốn của
nhà nước, đồng thời thu hút được nhiều khách hàng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
2. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề thực tập chủ yếu nghiên cứu về các phương pháp xác định
giá trị doanh nghiệp, những phương pháp đang được áp dụng tại các công ty
chứng khoán, ưu nhược điểm của từng phương pháp. Tính khả thi khi áp dụng
những phương pháp mới.
3. Kết cấu chuyên đề :
Chuyên đề thực tập gồm 3 chương.
Chương 1: Những lý luận chung về tư vấn xác định giá trị doanh
nghiệp tại công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại
công ty chứng khoán Mê Kông.
Chương 3: Giải pháp cần thực hiện để mở rộng tư vấn xác định giá
trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Mê Kông.
Kết luận .
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
Chương 1
Lý luận chung về tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của công
ty chứng khoán
1.1. Tổng quan về công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Hoạt động
của công ty chứng khoán khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương
mại thông thường. Sản phẩm của công ty chứng khoán thường là các dịch vụ
tài chính.
Khái niệm công ty chứng khoán.
Có rất nhiều khái niệm về công ty chứng khoán do nhiều tổ chức đặt ra.
Các khái niệm đều nêu bật được vị trí vai trò của công ty chứng khoán.
Theo giáo trình “Thị trường chứng khoán” của khoa ngân hàng tài
chính trường đại học kinh tế quốc dân thì : ‘công ty chứng khoán là một định
chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán’.
Công ty chứng khoán chính là một trung gian tài chính.
Phân loại công ty chứng khoán.
Theo mô hình tổ chức hoạt động thì công ty chứng khoán có thể chia
thành nhiều loại: Công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu
hạn.
Công ty hợp danh: Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên,
thành viên của công ty chứng khoán hợp danh bao gồm: Thành viên góp vốn
và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô
hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ thanh toán của công ty. Các
thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của
công ty.
Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng
khoán nào.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ
sở hữu công ty là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công
chúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: Thành viên của công ty chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu.
Do các ưu điểm của loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiệm
hữu hạn so với công ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các công ty chứng
khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần.
Hiện nay ở nước ta theo quyết định số 03/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13
tháng 10 năm 1998 của UBCK, CTCK là công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán
nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh
chứng khoán.
Theo cách phân loại dựa vào các nghiệp vụ thực hiện của công ty chứng
khoán thì công ty chứng khoán có thể chia thành các loại như sau:
Công ty môi giới chứng khoán: là công ty chỉ thực hiện việc trung gian,
mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là công ty chứng khoán có
lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí
hoặc chênh lệch giá.s
Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty chứng khoán chủ yếu thực
hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
Công ty trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các loại
trái phiếu.
Công ty chứng khoán phi tập trung: là các công ty chứng khoán hoạt
động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị
trường bằng các dịch vụ cung cấp.
Đối với các thị trường chứng khoán phát triển thì vai trò của các công ty
này là rất lớn. Còn đối với những thị trường mới phát triển như nước ta thì
tiềm năng của các công ty này là rất lớn.
1.2. Các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán.
Nghiệp vụ môi giới: Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc
đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty
chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế
giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC. Vì các quyết định đầu tư do chính
khách hàng đưa ra nên họ sẽ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả.
Hiện nay, tất cả các công ty chứng khoán ở nước ta đều đang thực hiện
nghiệp vụ này. Nhân viên phòng môi giới của các công ty chứng khoán sẽ
cung cấp thông tin về các công ty niêm yết, các thông tin thị trường cho khách
hàng bên cạnh đó họ sẽ đại diện cho khách hàng trong việc thực hiện các giao
dịch.Tuy nhiên đó mới chỉ là "môi giới giao dịch" khi thị trường phát triển thì
hoạt động môi giới phải đóng vai trò là cầu nối giữa nhà đầu tư bán chứng
khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán, thông qua hoạt động môi giới nhà môi
giới chứng khoán sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng
thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư
có những quyết định tỉnh táo.
Nghiệp vụ tự doanh: Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán là
quá trình tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình.
Đây được coi là một khoản đầu tư của công ty bởi vì hoạt động này được thực
hiện nhằm mục đích thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua
bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời
cũng phục vụ cho chính công ty.
Hoạt động tự doanh được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên
SGCK hoặc thị trường OTC. Trên thị trường OTC hoạt động tự doanh của
công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường.
Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ
một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực
hiện mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Đối với các công ty chứng khoán ở nước ta hiện nay thì chỉ có một số
công ty thực hiện hoạt động này bởi vì theo quy định của pháp luật thì muốn
thực hiện nghiệp vụ này thì công ty chứng khoán cần đáp ứng được một số
yêu cầu mà đầu tiên là phải có vốn điều lệ 12 tỷ. Đây cũng là một điều bất lợi
đối với một số công ty chứng khoán khi không có đủ điều kiện về vốn trong
khi đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và khả năng phân tích.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công
ty chứng khoán là việc thực hiện các đợt chào bán và phân phối chứng khoán
cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ra công chúng và thực hiện bảo lãnh. Có
thể nói nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là một trong những nghiệp vụ phổ biến
ở các công ty chứng khoán, nó giúp cho tổ chức phát hành thực hiện các thủ
tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và
giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay thì mới chỉ có một số công ty chứng
khoán thực hiện nghiệp vụ này, đó là những công ty có ngân hàng mẹ hỗ trợ
rất nhiều về năng lực, vốn, các quan hệ sẵn có.
Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu
tư là việc thực hiện quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng
khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở
tăng lợi nhuận và bảo toàn nguồn vốn cho khách hàng. Việc lập và quản lý
danh mục đầu tư đòi hỏi phải có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn có
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư tài chính. Chính vì vậy để có thể hoạt động
tốt tạo lòng tin cho khách hàng đồng thời thu được nguồn lợi nhuận trong
tương lai cho công ty thì cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ
này.
Nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán.
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán: Dựa trên hoạt động phân tích để
đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số
công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính
cho khách hàng.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là
vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả cho cả
công ty chứng khoán lẫn khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận
trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên
đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn
người tư vấn thu về cho mình khoản thu về dịch vụ tư vấn bất kể hoạt động đó
thành công hay không.
Bên cạnh các hoạt động tư vấn về đầu tư chứng khoán các công ty
chứng khoán còn thực hiện một mảng tư vấn rất lớn đó là mảng tư vấn tài
chính doanh nghiệp.
Trong mảng tư vấn về tài chính doanh nghiệp các công ty chứng khoán
thực hiện các hoạt động: Tư vấn cổ phần hoá, tư vấn niêm yết, tư vấn tái cấu
trúc doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức sở hữu, tư vấn xác định giá trị doanh
nghiệp, chia tách, sát nhập…Những mảng hoạt động này đòi hỏi đội ngũ nhân
viên tư vấn của công ty chứng khoán cần phải nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề
tài chính doanh nghiệp một cách chuyên sâu.
Những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước ta
trong việc sắp xếp đổi mới hình thức sở hữu của các doanh nghiệp, tất cả 13
công ty chứng khoán đều đã thực hiện rất tốt mảng hoạt động này.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
Công ty chứng khoán Mê Kông tuy ra đời muộn hơn so với các công ty
khác nhưng hoạt động tư vấn doanh nghiệp là một trong những hoạt động
mạnh của công ty không thua kém gì so với những công ty chứng khoán khác.
Trong năm 2003 và năm 2004 số lượng hợp đồng tư vấn cổ phần hoá và
xác định giá trị doanh nghiệp là 40. Đây có thể coi là một thành tích đáng
khen đối với một công ty chứng khoán với số vốn chỉ có 6 tỷ đồng và còn non
trẻ trên thị trường.
1.3. Lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp.
Giá trị doanh nghiệp.
Theo luật doanh nghiệp năm 1999 được sửa đổi và bổ sung năm 2004
của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì doanh nghiệp được định
nghĩa như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Ban đầu khi mới hình thành thị trường doanh nghiệp chỉ được coi là
một tổ chức kinh tế thông thường chứ chưa được coi là một hàng hoá của nền
kinh tế bởi nó chưa thực sự được đem ra trao đổi mua bán trên thị trường. Chỉ
đến khi thị trường phát triển đến một mức độ nhất định, lúc này doanh nghiệp
mới thực sự là một hàng hoá. Khi đã trở thành hàng hoá thì người ta bắt đầu
quan tâm tới giá trị của doanh nghiệp. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để
xác định được giá trị doanh nghiệp? Và liệu giá trị của doanh nghiệp có đồng
nghĩa với giá cả của nó không?
Theo C.Mác thì giá trị là sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong
hàng hoá, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị trên thị trường nhưng
phụ thuộc vào quy luật cung cầu. Giá cả có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị.
Đối với một doanh nghiệp cũng vậy, giá trị của doanh nghiệp chính là sự kết
tinh của lao động xã hội cần thiết trong bản thân doanh nghiệp đó. Tuy nhiên,
không phải như các hàng hoá thông thường mà doanh nghiệp là một loại hàng
hoá đặc biệt, một cơ cấu phức tạp của nhiều yếu tố và các mối liên hệ giữa
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
chúng. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có các mối quan hệ với các
chủ thể trên thị trường. Chính các yếu tố bên trong, bên ngoài doanh nghiệp
góp phần tạo nên giá trị doanh nghiệp.
Qua việc phân tích và nhận định trên ta có thể rút ra một số kết luận
riêng về giá trị doanh nghiệp như sau:
Một là: giá trị doanh nghiệp là giá trị cá biệt, được xây dựng trên cơ sở
mức hao phí lao động cá biệt của doanh nghiệp tạo nên, mỗi một doanh
nghiệp có một đặc thù, một giá trị riêng và không một doanh nghiệp nào
giống doanh nghiệp nào.
Hai là: giá trị doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là giá trị ghi trên sổ
sách mà là giá trị được mọi người quan tâm đó chính là giá trị kinh tế. Nhà
đầu tư khi tiến hành xem xét giá trị doanh nghiệp chủ yếu quan tâm tới khả
năng thu được lợi nhuận trong tương lai.
Ba là: giá trị doanh nghiệp xác định được tại thời điểm định giá không
phải là giá trị cuối cùng và duy nhất, nó có thể thay đổi theo thời gian, theo
cung cầu và theo các biến động trên thị trường.
1.3.1. Định giá doanh nghiệp.
Hiện nay có nhiều quan niệm về giá trị. Mỗi quan niệm được tiếp cận ở
những góc độ khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại thì có hai khái niệm được
phổ biến hiện nay đó là:
Theo giáo sư W. SEABROKE Và N.WALKER, viện đại học
PORTSMOUTH, vương quốc Anh:
“Định giá được hiểu là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài
sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ”.
Còn theo giáo sư Lim Lan Yuan, trường xây dựng và bất động sản, đại
học quốc gia Singapore thì:
“Định giá được quan niệm là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính
giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản tại một thời điểm, có cân nhắc
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
đến tất cả các đặc điểm của tài sản và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố
kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”.
Vậy với hai khái niệm trên ta có thể hiểu định giá doanh nghiệp theo hai
cách như sau: Thứ nhất, định giá doanh nghiệp là sự ước tính về giá trị của
các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã
được xác định rõ, đó là để đưa doanh nghiệp ra mua bán, hoặc để đầu tư vào
doanh nghiệp…Thứ hai, định giá doanh nghiệp là một nghệ thuật hay khoa
học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một doanh nghiệp tại một
thời điểm đó là thời điểm định giá, mà có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm
của doanh nghiệp và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản
của thị trường.
1.3.2. Vai trò của việc định giá doanh nghiệp
Đối với mỗi chủ thể khác nhau trên thị trường thì việc tiếp cận giá trị
doanh nghiệp cũng với những mục đích khác nhau.
Đối với chủ sở hữu: Việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ giúp chủ sở
hữu biết rõ được giá trị thực tế của doanh nghiệp, từ đó họ có thể lập các kế
hoạch, chiến lược phát triển trong tương lai cho doanh nghiệp
Vấn đề chia tách sát nhập cổ phần hoá hoặc huy động vốn cũng trở lên
thuận lợi hơn rất nhiều.
Đối với nhà đầu tư: Với bất kỳ một nhà đầu tư nào trên thị trường họ
luôn mong muốn đồng vốn đầu tư của mình không những được bảo toàn mà
còn phải có lãi với từng mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Tại cùng một
mức rủi ro họ luôn muốn nhận được mức lợi nhuận cao nhất. Do đó, việc định
giá doanh nghiệp là một cơ sở quan trọng cho nhà đầu tư ra các quyết định
của mình. Nhà đầu tư sẽ trả lời được các câu hỏi : Có nên đầu tư vào doanh
nghiệp này hay không? Mức giá là bao nhiêu thì phù hợp? Bên cạnh đó những
thông tin nhận được trong quá trình định giá sẽ giúp nhà đầu tư dự đoán được
một phần tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp SV: §ç Quang Hoµ-TTCK43
Đối với các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường: Một trong
những cơ sở quan trọng để các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường hay
các chủ nợ, bạn hàng của doanh nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn hoặc hợp
tác làm ăn, đầu tư vào doanh nghiệp là: xem xét khả năng sinh lời của doanh
nghiệp trong tuơng lai cũng như khả năng phát triển bền vững của doanh
nghiệp. Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp sẽ cung cấp rất nhiều thông
tin về doanh nghiệp. Qua đó họ có thể dễ dàng đưa ra các quyết định trong
mối quan hệ với doanh nghiệp.
Đối với nhà nước:
Quá trình phân tích trên cho ta thấy vai trò nổi bật của việc định giá
doanh nghiệp là :
Một là: đối với việc chuyển nhượng mua bán, sát nhập thôn tính doanh
nghiệp thì hoạt động định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho người mua và người
bán đưa ra mức giá hợp lý, tạo cơ sở cho việc mua bán một cách công bằng
chính xác và nhanh gọn giảm chi phí giao dịch. Quá trình mua bán thường bị
kéo dài do mức giá mà hai bên đưa ra thường chênh lệch nhau quá lớn. Việc
định giá là cơ sở vững chắc thu hẹp khoảng cách mức giá giữa bên mua và
bên bán. Do đó khoảng thời gian đàm phán được rút ngắn, chi phí nhờ đó
cũng được rút ngắn.
Hai là: với mục đích cổ phần hoá, tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước.
Định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho việc xác định được phần vốn của nhà nước
trong doanh nghiệp và giá cả hợp lý của cổ phiếu bán ra, đồng thời để xác
định xem liệu nhà nước có nên nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp nữa hay
không và tỷ lệ nắm giữ là bao nhiêu cho phù hợp.
1.3.3. Nguyên tắc và yêu cầu của hoạt động định giá.
Định giá doanh nghiệp cũng có những yê