Công nhân Sài Gòn – Gia Định trong cuộc tổng đình công chống chính quyền Sài Gòn năm 1964

TÓM TẮT Sau Hiệp định Genève, nền kinh tế ở miền Nam có sự chao đảo lớn. Người Pháp rút đi, để lại sau lưng một gánh nặng kinh tế cho chính quyền mới. Nền kinh tế miền Nam Việt Nam bị phụ thuộc quá nhiều vào sự viện trợ của Mỹ. Đời sống công nhân khó khăn, việc làm ít, lương thấp, lại bị giới chủ hà hiếp, sa thải. Trước tình hình ấy, phong trào đấu tranh của công nhân lên cao, có tổ chức chặt chẽ và lan rộng ra các tỉnh thành khác. Tìm hiểu cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn năm 1964, chúng ta sẽ hiểu được phần nào vị trí và vai trò của phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh của nhân dân Sài Gòn – Gia Định vào thời điểm đó.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 175 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nhân Sài Gòn – Gia Định trong cuộc tổng đình công chống chính quyền Sài Gòn năm 1964, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 114 CÔNG NHÂN SÀI GÒN – GIA ĐỊNH TRONG CUỘC TỔNG ĐÌNH CÔNG CHỐNG CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN NĂM 1964 ĐỖ CAO PHÚC (*) TÓM TẮT Sau Hiệp định Genève, nền kinh tế ở miền Nam có sự chao đảo lớn. Người Pháp rút đi, để lại sau lưng một gánh nặng kinh tế cho chính quyền mới. Nền kinh tế miền Nam Việt Nam bị phụ thuộc quá nhiều vào sự viện trợ của Mỹ. Đời sống công nhân khó khăn, việc làm ít, lương thấp, lại bị giới chủ hà hiếp, sa thải. Trước tình hình ấy, phong trào đấu tranh của công nhân lên cao, có tổ chức chặt chẽ và lan rộng ra các tỉnh thành khác. Tìm hiểu cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn năm 1964, chúng ta sẽ hiểu được phần nào vị trí và vai trò của phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh của nhân dân Sài Gòn – Gia Định vào thời điểm đó. Từ khóa: đấu tranh, đình công, công nhân ABSTRACT General strikes of Saigon - Giadinh workers against Saigon government in 1964 After the Geneva agreement, the economy in the South of Vietnam have big wobbles. The French receded, leaving behind an economic burden for the new administration. The economy of Southern Vietnam was heavily dependent on the U.S. aids. Workers had hard lives, fewer jobs, lower salary, and were dismissed or e abused by their employers. Confronted with that situation, the movement of workers raised high, with tight organization and spread to other provinces. Understanding the struggle affair of Saigon - Giadinh workers in 1964, we will be able to comprehend partly the role of the Southern labor movement at that time. Keyword: struggle, strikes, workers ... 1. VÀI N T VỀ TÌNH HÌNH CỦA CÔNG NHÂN SÀI GÒN – GIA ĐỊNH THỜI KỲ 1954 - 1964* Sau khi Hiệp đ nh Genève được kí kết, tình trạng công nhân miền Nam thất nghiệp ngày càng cao, nhất là ở Sài Gòn - Gia Đ nh. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này: chính quyền thay đổi, giới tư sản Pháp rút về nước, một số công ty của Pháp đóng cửa khiến cho công nhân mất việc. Chính quyền Sài Gòn không thể xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, mà b lệ thuộc rất (*) ThS, Trường Đại học Sài Gòn nhiều vào sự viện trợ của Mỹ. Miền Nam b biến thành xã hội tiêu thụ, sản xuất trồi sụt nên không tạo ra đủ việc làm cho người dân. Theo số liệu thống kê thì năm 1955, Sài Gòn có 10 vạn người thất nghiệp. Công nhân b sa thải càng làm gia tăng đội quân thất nghiệp ở Sài Gòn. Năm 1956, tình trạng sa thải công nhân thường xuyên hơn: 25.000 công nhân xí nghiệp nhà binh Pháp b sa thải; hơn 80% công nhân ngành dệt ở Sài Gòn b sa thải. Bến cảng Sài Gòn trước đây cần từ 15.000 đến 20.000 công nhân, nay chỉ sử dụng 5.000 chưa đến 7.000 lao động. Tính đến 1958, có khoảng 115 40% đến 70% công nhân các ngành gạch, ngói, xi măng mất việc làm. Như vậy, tại Sài Gòn, có 836.640 người thất nghiệp, chiếm 68,6% số công nhân thất nghiệp toàn miền Nam. Do cuộc sống bế tắc, số người tự tử vì thất nghiệp cũng tăng cao. Riêng năm 1959, tại miền Nam có 930 vụ tự tử thì có tới 662 vụ tự tử do thất nghiệp [2, tr.271]. Với những con số trên cho người ta thấy tình trạng thất nghiệp đẩy công nhân đến chỗ bế tắc, cùng cực, điều này dẫn đến các tệ nạn xã hội bấy giờ như nạn trộm cắp, nghiện ngập... Những biện pháp kinh tế của chính quyền Việt Nam cộng hòa không thể giúp giải quyết được vấn đề công ăn, việc làm mà chỉ càng tạo một làn sóng đấu tranh gay gắt của công nhân chống áp bức bóc lột và bất công xã hội. Chính quyền Diệm đã bế tắc trong vấn đề giải quyết việc làm cho dân nên thi hành chính sách “giải tỏa đô thành”, xua công nhân về quê làm mướn cho đ a chủ [4, tr.77]. Tuy nhiên, chính sách này không thành công do đ a bàn nông thôn của nông dân sinh sống b tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, bởi chất độc hóa học Mỹ phun rãi và bởi bom đạn Mỹ. Dòng người t nạn ở nông thôn ra thành th gia tăng trong quá trình đô th hóa cưỡng bức dưới tác động chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ. Tại các đô th lớn ở miền Nam Việt Nam, công nhân bắt buộc phải chấp nhận làm việc trong điều kiện khắc nghiệt với đồng lương rẻ mạc. Trong ngành dệt, công nhân phải làm liên tục 15 tiếng đồng hồ mà chỉ kiếm được 20-30 đồng, trong khi chi tiêu một ngày của một công nhân lên tới 40 đồng. Tại các đô th lớn ở miền Nam như Sài Gòn giá cả không ngừng tăng lên: năm 1961, giá sỉ tăng 12%, năm 1962 tiếp tục tăng 14% [7, tr.18]. Chỉ số giá tiêu thụ tại Sài Gòn được ghi nhận như sau: Bảng 1: Chỉ số giá tiêu thụ từ năm 1954 đến năm 1963 tại Sài Gòn Năm Căn bản năm 1949: 100 Trung lưu Lao động 1949 1954 1955 1956 1957 1958 1959 1960 1961 1962 1963 100 212,0 232,7 260,0 258,2 252,6 257,9 257,6 270,0 279,9 296,9 100 203,4 223,7 250,2 238,7 234,0 239,8 236,8 251,9 259,5 278,5 Nguồn: Nguyễn Anh Tuấn (1968), Chính sách tiền tệ Việt Nam (từ thời Pháp thuộc đến đệ nhị cộng hòa), Tác giả xuất bản, Sài Gòn, tr.135 116 Nhìn vào bảng chỉ số tiêu thụ trên, người ta thấy giá cả leo thang chóng mặt. Thu nhập của tầng lớp lao động vào năm 1954 là 238,8 thì đến năm 1963 con số này đạt mức là 278,5, một con số khá cao so với mức sống trung bình của công nhân ở Sài Gòn lúc đó. Riêng từ 1960 đến 1961, con số này tăng thất thường như: tầng lớp lao động từ 236,8 (1960) lên 251,9 (1961), tầng lớp trung lưu từ 257,6 (1960) lên 270,0 (1961). Lý giải được sự biến đổi này do: sự bất ổn trong nội bộ của chính quyền Sài Gòn đã tác động mạnh đến nền kinh tế miền Nam, Mỹ âm mưu tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, nông thôn b tàn phá nặng nề do những cuộc giao tranh giữa lực lượng cách mạng với quân đội Sài Gòn những yếu tố đó đã đẩy giá cả sinh hoạt lên nhanh chóng và càng làm đời sống sinh hoạt của công nhân khó khăn. Năm 1961, Mỹ viện trợ mạnh mẽ cho chính quyền miền Nam, tiến hành các hàng loạt kế hoạch “hòa bình” mới: đội hòa bình”, “lương thực vì hoàn bình” [9. tr.36]. Viện trợ kinh tế tăng lên. Do đó, từ năm 1961, giá cả bắt đầu rối loạn, nạn đầu cơ tích trữ, lũng đoạn th trường trở nên phổ biến và trầm trọng. Miền Nam Việt Nam vốn là vựa lúa có xuất khẩu lương thực, nhưng đến năm 1962 chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải “nhập cảng một số gạo đáng kể” [7, tr.19]. Điều này rất bất hợp lý, miền Nam vốn trước đây có thế mạnh về sản xuất lúa gạo nay phải nhập khẩu. Sản xuất nông nghiệp đình đốn do chiến tranh gây ra và đây thực sự là tình trạng kinh tế tồi tệ của Việt Nam cộng hòa. Viện quốc gia thống kê của chính quyền Sài Gòn cho biết, qua khảo sát 4 năm (1958-1961), so sánh giữa tiền lương và giá cả thì mệnh lương tiến triển chậm, lương thực tế chuyển biến thất thường, trong khi giá tiêu thụ gia tăng vụt. Vì vậy, “nếu được tăng lương đều, mãi lực của họ (công nhân) vẫn yếu, điều kiện sinh hoạt của họ vẫn chưa được cải tiến” [6, tr.34]. Điều đó thể hiện mất cân đối nghiêm trọng giữa giá cả sinh hoạt và tiền lương thực tế của công nhân Sài Gòn trong giai đoạn này. So với Chợ Lớn, Gia Đ nh tập trung nhiều công nhân nghèo, người dân chủ yếu làm nông, đánh bắt cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm, ngoài ra còn có một số người kinh doanh thương mại, kỹ nghệ. Năm 1961, toàn tỉnh Gia Đ nh có hơn 40.000 ha đất canh tác, dùng để trồng lúa, cây ăn trái và rau xanh các loại. Nhưng lúa gạo sản xuất trong tỉnh không đủ cung cấp cho nhu cầu của dân chúng, cho nên họ phải sống bằng nhiều nghề khác nhau. Nghề dệt ở Gia Đ nh đã phát triển nhanh và số công nhân đông đảo. Đến cuối những năm năm mươi, Gia Đ nh mọc lên nhiều làng dệt như khu Mã Nhiêu Tứ, Ngã Tư Bảy Hiền, Khu Lăng Cha Cả, Khu Cây Quéo, Khu Th Nghè, Khu Xóm Thơm, Vùng Thạnh Đông, Đông Hưng Tân v.v Ngành dệt ở Gia Đ nh chiếm 1/3 tổng sản lượng sản phẩm dệt tiểu công nghệ toàn miền Nam [1, tr.27]. Không chỉ ở Gia Đ nh, ngành công nghiệp dệt còn khá phát triển ở nhiều khu vực khác ở Sài Gòn, xuất hiện nhiều công ty dệt có tên tuổi. Từ những năm đầu thập niên sáu mươi, các nhà tư sản cho nhập khẩu máy móc dệt hiện đại và thành lập các công ty như: Th nh Phát, Nam Á, Công ty dệt nhuộm Việt Nam, Công ty Vinatexco, Công ty Vimytex Mặt khác, miền Nam vẫn còn nhập vải thành phẩm, những mặt hàng tiểu thủ công từ Mỹ hoặc đồng minh của Mỹ nhằm biến miền Nam thành th trường tiêu thụ. Vì sử dụng nhiều máy móc hiện đại nên giới chủ không cần nhiều công 117 nhân, càng làm gia tăng đội quân thất nghiệp trong ngành dệt. Bên cạnh đó, do hàng hóa vải vóc chất lượng tốt và giá rẻ nhập từ các nước đồng minh của Mỹ hoặc từ Mỹ đã làm gia tăng tính cạnh tranh giữa các mặt hàng vải sản xuất tại Việt Nam với mặt hàng nhập từ bên hàng. Với ưu thế về chất lượng và giá, các mặt hàng vải nhập khẩu đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng, đẩy hàng loạt các xí nghiệp ở Sài Gòn b giải thể và phá sản dẫn đến nhiều công nhân b thất nghiệp. Đối với những nhà máy, xí nghiệp còn trụ lại thì được giới chủ thi hành những chính sách cực kì bóc lột và đàn áp công nhân. Cuộc sống cùng cực càng làm cho phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn nói chung, công nhân ngành dệt nói riêng thêm mạnh mẽ, quyết liệt. Nhìn chung, trong giai đoạn 1955 - 1964, đời sống công nhân Sài Gòn gặp nhiều khó khăn. Việc làm không ổn đ nh, nạn thất nghiệp tràn lan, lương thấp, giá cả tăng vọt là điều công nhân luôn đối mặt trong cuộc sống. Chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng chưa có giải pháp thiết thực để cải thiện đời sống công nhân Sài Gòn. Công nhân Sài Gòn bất mãn với chế độ trên nhiều mặt: kinh tế, chính tr , xã hội. Sự cùng cực về kinh tế và khủng hoảng xã hội là nguyên nhân chính làm bùng phát phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn – Gia Đ nh trong năm 1964. 2. CÔNG NHÂN SÀI GÒN – GIA ĐỊNH TRONG CUỘC TỔNG ĐÌNH CÔNG NĂM 1964 2.1. Phong trào đấu tranh của công nhân ngành dệt ở Sài Gòn năm 1964 Sau khi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm b lật đổ, phong trào đấu tranh của công nhân ngành dệt càng lên cao, đặc biệt là ở xí nghiệp Vimytex và Vinatexco. Chủ hai xưởng này là người Đài Loan, phần lớn kỹ sư, nhân viên kỹ thuật và công nhân là người Hoa. Dưới thời Diệm, xưởng dệt này cũng như nhiều xí nghiệp nhà máy khác ở Sài Gòn, giống như một ấp chiến lược. Chủ tư bản cài mật vụ vào tất cả các bộ phận để khống chế công nhân, nhất là để ngăn chặn sự ảnh hưởng của cách mạng. Công nhân b kiềm kẹp bởi những luật lệ hà khắc trong các nhà máy, xí nghiệp. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự Hoa vận, công nhân ở hai xưởng trên đã nhiều lần đứng lên đấu tranh đòi dân sinh dân chủ. Trong số các lãnh tụ của công nhân Vimytex, nổi bật là Trần Khai Nguyên. Năm 1961, ông gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam và làm bí thư chi bộ tại nhà máy Vimytex (nay là xưởng dệt Việt Thắng), đồng chí Lữ Kim Hoa làm bí thư chi bộ nhà máy Vinatexco [12]. Lãnh đạo công nhân hai nhà máy đã phối hợp tổ chức cuộc đình công với quy mô lớn, thu hút sự tham gia của nhiều công nhân các ngành nghề khác, kể cả giới giáo chức, học sinh sinh viên. Phong trào đấu tranh của công nhân Vinatexco Cuối năm 1963, công nhân Vinatexco đã gửi cho Ban Giám đốc 6 yêu sách đòi tăng lương và cải thiện chế độ sinh hoạt, ăn uống. Tuy nhiên, các yêu sách này đều không được chủ chấp nhận. Đầu năm 1964, khi chủ xưởng đóng cửa một số phân xưởng và sa thải một số công nhân đã làm cho phong trào đấu tranh bùng phát mạnh mẽ. Sau hai lần hòa giải, Ban giám đốc vẫn không thực hiện đúng thỉnh nguyện của công nhân. Ngày 14/1/1964, hơn 2.000 công nhân tiến hành đình công chiếm xưởng. Ngày 17/1/1964, Phó Tỉnh trưởng Nội an Gia Đ nh đã đưa một đại đội thủy quân lục chiến đến đàn áp phong trào công nhân nhưng chúng đã vấp phải sự chống kháng mãnh liệt của công nhân. Cuộc đàn 118 áp dã man của nhà cầm quyền và sự chống trả dũng cảm của công nhân Vinatexco đã làm lay động dư luận Sài Gòn và thế giới. Báo chí Sài Gòn đã lên tiếng chỉ trích dữ dội sự đàn áp của nhà cầm quyền. Đồng thời, Liên hiệp Công đoàn thế giới và công đoàn các nước trong đó có Tổng liên đoàn lao động Pháp đã lên tiếng ủng hộ công nhân Việt Nam. Cuộc đấu tranh của công nhân Vinataxco đã nhận được nhiều sự ủng hộ các giới của nhân dân Sài Gòn - Gia Đ nh, cũng như công nhân ở miền Nam. Đã có hơn 1.000 đồng bào Sài Gòn tiếp sức cho công nhân đấu tranh, hơn 20 nghiệp đoàn cùng trên 2 vạn công nhân ngành dệt, 7.000 công nhân khuân vác bến tàu, 6.000 công nhân đường sắt, 2.000 công nhân lái xe buýt, taxi và hàng vạn công nhân cao su Tây Ninh, Thủ Dầu Một họp mít tinh biểu tình ra kiến ngh , quyên góp tiền bạc ủng hộ công nhân Vinatexco. Ngày 19/2/1964, dưới áp lực đấu tranh của công nhân và dư luận, bọn chủ đã phải tăng lương 6-8% cho công nhân Vinatexco. Phong trào đấu tranh của công nhân Vimytex (nay là Tổng công ty Việt Thắng, thành viên của Tập Đoàn dệt may Việt Nam) Cuộc đình công chiếm xưởng của công nhân Vinatexco đã tác động mạnh đến phong trào đấu tranh của 1.800 công nhân Vimytex chống lệnh giới chủ sa thải 151 công nhân kéo dài từ 17/4/1964 đến tháng 9/1964. Diễn biến như sau: ngày 10/8/1964, giới chủ bắt đầu thông báo cho công nhân nghỉ việc với lý do chờ sửa chữa máy móc. Công nhân Vimytex tập trung tại xưởng yêu cầu Trưởng ty Lao động Gia Đ nh can thiệp và yêu cầu chủ mở máy để công nhân làm việc [8, Tr.73]. Chính quyền Sài Gòn đã tập trung lực lượng đàn áp thẳng tay bởi vì: trước đó cuộc đấu tranh của công nhân Vinatexco đã có ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ tới các tầng lớp lao động ở Sài Gòn. Chính quyền ở Sài Gòn lo sợ cuộc đấu tranh của công nhân Vimytex bùng phát sẽ có ảnh hưởng tai hại đến tình hình chính tr xã hội Sài Gòn. Nhà cầm quyền đã tiến hành giam giữ 19 công nhân Vimytex buộc tội họ có hành động chống lại chính quyền. Trước tình thế đó, công nhân đã đề ngh Tổng Liên đoàn lao công gửi yêu sách đến Tổng thống Việt Nam cộng hòa nhằm tố cáo việc sa thải của giới chủ, và hành động đàn áp dã man của chính quyền. Trong khoảng thời gian công nhân Vymitex đấu tranh phản đối chủ và chính quyền thì một sự kiện quan trọng xảy ra, người thợ công nhân Lâm Sơn Náo đã đánh chìm tàu hải quân Mỹ USS Card ngay tại Cảng Sài Gòn vào ngày 2/5/1964 [10, tr.389]. Đây là một hồi chương cảnh báo đối với chính quyền Việt Nam cộng hòa mà còn cả giới kinh doanh tại các đô th lớn ở miền Nam. Sự thắng lợi của công nhân Cảng Sài Gòn đã tác động mạnh mẽ đến phong trào công nhân Sài Gòn, đặc biệt khi mà công nhân dệt Vimytex đang sôi sục biểu tình chống giới chủ tư bản, chính quyền Sài Gòn. Để xoa d u sự phong trào của công nhân Vimytex, Trần Quốc Bửu đã cho phép công nhân đấu tranh nhưng phải dưới chỉ đạo của Tổng Liên đoàn lao công. Cuộc biểu tình đợt này đã thu hút được nhiều Nghiệp đoàn khác cùng tham gia như: Tổng liên Đoàn lao động (chủ t ch là Lê Văn Thốt), Liên hiệp các nghiệp đoàn Tự do (chủ t ch là Bùi Lượng), Lực lượng thợ thuyền (chủ t ch là Nguyễn Khánh Văn) Cuộc đấu tranh của công nhân Vimytex dưới sự lãnh đạo Trần Khai Nguyên đã có tính tổ chức và đ nh hướng chặt chẽ trong 119 khuôn khổ luật pháp của chính quyền Sài Gòn. Họ vạch mặt tổ chức công đoàn tay sai của chính quyền Sài Gòn và buộc chúng phải có trách nhiệm liên đới khi ngầm ngầm phản bội phong trào đấu tranh của công nhân. 2.2 Phong trào tổng đình công phối hợp của công nhân Sài Gòn-Gia Định năm 1964 Không chỉ dừng lại ở đấu tranh cho quyền lợi kinh tế, công nhân Sài Gòn phối hợp chặt chẽ với học sinh sinh viên trong cuộc đấu tranh mang mục đích chính tr để phản đối chế độ quân phiệt Nguyễn Khánh. Ngày 17/8/1964, chính quyền Sài Gòn công bố bản Hiến chương Vũng Tàu kèm theo cuộc trưng cầu dân ý về việc Khánh lên làm quốc trưởng. Đây là bản hiến chương do Mỹ - Khánh thoả thuận ngày 16/8/1964 tại Vũng Tàu nhằm mở đường cho Mỹ can thiệp mạnh mẽ vào miền Nam khi mà chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đang gần như thất bại hoàn toàn. Ngày 18/8/1964, các cuộc biểu tình phản đối của quần chúng nhân dân không chỉ nổ ra ở Sài Gòn mà còn ở hầu khắp các đô th lớn ở miền Nam [3, tr.365]. Trước sự đấu tranh quyết liệt của phong trào, chính quyền Khánh phải ban hành lệnh giới nghiêm, cấm bãi công, biểu tình, hội họp. Hàng vạn người kéo đến Bộ Thông tin đập phá đài phát thanh, bao vây dinh Độc Lập phản đối chế độ độc tài quân sự, đòi Nguyễn Khánh từ chức, đòi Mỹ rút ra khỏi miền Nam... Nhà cầm quyền đàn áp làm chết và b thương nhiều người biểu tình và bắt đi 1.400 người khác. Trước tình hình đó, ngày 26/8/1964, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh và Quốc vụ khanh Nghiêm Xuân Hồng buộc phải ra tuyên cáo của Hội đồng quân sự đồng ý rút bỏ Hiến chương Vũng Tàu hòng xoa d u sự phẫn nộ của nhân dân. Với thắng lợi bước đầu buộc Nguyễn Khánh phải hủy bỏ Hiến chương Vũng Tàu, công nhân Sài Gòn - Gia Đ nh cùng học sinh sinh viên và các Phật tử yêu nước tiếp tục đấu tranh và dự đám tang những người đã b chính quyền sát hại. Ngày 6/9/1964, công nhân Vimytex tập trung khoảng 1.000 người tại công trường Quách Th Trang với những khẩu hiệu được trưng lên như: yêu cầu chấm dứt lệnh giãn công, sa thải vô cớ của chủ xưởng Vimytex, trả lương cho công nhân những ngày đình công, đòi trừng tr thủ phạm đàn áp công nhân ngày 10/8/1964, phản đối chính quyền ban hành lệnh khẩn cấp 18/8/1964. Chỉ trong vòng 8 ngày (từ 10/8-18/8/1964) mà chính quyền Sài Gòn lại không giải quyết được nguyện vọng thỉnh cầu của công nhân, điều này cho thấy chính quyền quân phiệt Sài Gòn thiên về hoạt động đàn áp dã man phong trào công nhân Sài Gòn. Phong trào đấu tranh của công nhân Vimytex ngày càng sâu rộng đã thu hút đông đảo các công nhân ngành nghề khác ở Sài Gòn cùng tham gia, thể hiện tính đoàn kết và ý thức giác ngộ giai cấp của công nhân Sài Gòn. Điển hình như phong trào: công nhân Nha công chánh Cảng, Tavico, Ciment tuyên bố ủng hộ công nhân Vimytex, đấu tranh vì quyền lợi dân sinh dân chủ, lên án đòi Tổng liên đoàn và các nghiệp đoàn cho đại biểu công nhân tự do hội họp (13/9/1964), công nhân ôtô buýt, công nhân cao su gửi tiền ủng hộ công nhân Vimytex (18/9/1964) [5, tr.59]. Cuộc tổng đình công diễn ra từ 6 giờ sáng (21/9/1964) đến 6 giờ sáng (23/9/1964) [10, tr.408] trong khoảng thời gian 3 ngày đã làm tê liệt nhiều hoạt động tại Sài Gòn, gây thiệt hại to lớn đến nền kinh tế miền Nam. Phong trào công nhân ở đô th Sài 120 Gòn có vai trò giữ v trí trung tâm trong các phong trào yêu nước ở Sài Gòn – Gia Đ nh. Sự đấu tranh của công nhân không chỉ vì quyền lợi kinh tế mà gắn liền ý thức chính tr , chống chiến tranh xâm lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn 3. KẾT LUẬN Cùng với những thắng lợi trên lĩnh vực quân sự của cách mạng miền Nam, phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn – Gia Đ nh góp phần thúc đẩy thêm sự suy yếu của chính quyền Sài Gòn. Nhân d p kỷ niệm 4 năm ngày thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam, Chủ t ch Nguyễn Hữu Thọ đã khẳng đ nh: “Phong trào đô th gần như đã chứng minh một cách rõ rệt vai trò chiến lược của nó trong sự nghiệp cách mạng nói chung, mà nổi bật hơn hết là phong trào công nhân trong ngày biểu dương lực lượng 21 tháng 9, báo trước cơn bão táp sắp nổi lên ngay trong lòng đ ch” [8.tr.86]. Lần đầu tiên ở miền Nam, công nhân Sài Gòn – Gia Đ nh đã biểu dương sức mạnh của mình bằng cách dùng tổng bãi công để chống lệnh cấm bãi công, dùng biểu tình để chống lệnh cấm biểu tình. Phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn đã kết hợp chặt chẽ với các phong trào yêu nước khác, từng bước góp phần bảo vệ quyền lợi người lao động cũng như làm phá sản các chiến lược chiến tranh của Mỹ tại chiến tr