Tóm tắt. Bài báo giới thiệu các biện pháp chính mà người giáo viên có thể
dùng khi dạy nghĩa của từ cho học sinh học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ
thứ hai. Các biện pháp thường dùng cho dạy nghĩa từ trong một lớp học
song ngữ bao gồm: biện pháp dịch từ - đối - từ qua tiếng mẹ đẻ của học
sinh, biện pháp trực quan sự vật, biện pháp phương pháp trực quan hành
động, biện pháp định nghĩa từ qua các nét nghĩa (giải nghĩa từ bằng tiếng
Việt). Ngoài ra, học sinh cũng có thể đoán nghĩa từ qua văn cảnh.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy nghĩa của từ cho học sinh tiểu học học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ thứ hai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Vol. 56, No. 5, pp. 36-42
DẠY NGHĨA CỦA TỪ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
HỌC TIẾNG VIỆT VỚI TƯ CÁCH NGÔN NGỮ THỨ HAI
Nguyễn Thu Phương
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail: nguyenthuphuong-521989@yahoo.com
Tóm tắt. Bài báo giới thiệu các biện pháp chính mà người giáo viên có thể
dùng khi dạy nghĩa của từ cho học sinh học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ
thứ hai. Các biện pháp thường dùng cho dạy nghĩa từ trong một lớp học
song ngữ bao gồm: biện pháp dịch từ - đối - từ qua tiếng mẹ đẻ của học
sinh, biện pháp trực quan sự vật, biện pháp phương pháp trực quan hành
động, biện pháp định nghĩa từ qua các nét nghĩa (giải nghĩa từ bằng tiếng
Việt). Ngoài ra, học sinh cũng có thể đoán nghĩa từ qua văn cảnh.
1. Đặt vấn đề
Trong các đơn vị ngôn ngữ, từ được xem là đơn vị trung tâm. Với một ngôn
ngữ, từ là phương tiện quan trọng phản ánh những bình diện khác nhau của hiện
thực cuộc sống. Với mỗi người, từ là phương tiện để tạo lập và tiếp nhận lời nói
trong hoạt động giao tiếp; mặt khác, nếu thiếu từ, con người không thể tư duy một
cách mạch lạc. Sự phong phú trong vốn từ của một người tỉ lệ thuận với năng lực
tư duy và năng lực giao tiếp ngôn ngữ của người đó. Điều đó có nghĩa là muốn giao
tiếp và tư duy tốt, mỗi người luôn phải trau dồi làm cho vốn từ của mình ngày càng
phong phú, tích cực.
Như tất cả các tín hiệu khác, từ có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau: cái
biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt của từ là âm thanh, chữ viết; cái được
biểu đạt của từ là ý nghĩa. Nếu không nắm được nghĩa, những âm thanh trống rỗng
hoàn toàn không có giá trị giao tiếp. Vì vậy, giúp học sinh học tiếng Việt là ngôn
ngữ thứ hai, đặc biệt là học sinh tiểu học các dân tộc ít người hiểu ý nghĩa của từ
và biết cách sử dụng từ là nhiệm vụ quan trọng của việc dạy tiếng.
2. Nội dung nghiên cứu
Khi dạy nghĩa từ cho học sinh tiểu học (HSTH) học tiếng Việt (TV) với tư
cách là ngôn ngữ thứ hai, giáo viên không chỉ cần quan tâm tới vốn ngôn ngữ của
các em (bao gồm vốn tiếng mẹ đẻ và vốn TV – nếu có), mà còn cần chú ý tới những
nhân tố khác có ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em: đặc điểm tư duy, đặc
36
Dạy nghĩa của từ cho học sinh tiểu học học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ thứ hai
điểm tâm lí, nhận thức, kinh nghiệm sống của HS lứa tuổi tiểu học,... Đa số học
sinh các dân tộc (DT) ít người thường nhút nhát, thiếu tự tin nên không mạnh dạn
giao tiếp bằng tiếng Việt. Môi trường học tập, giao tiếp TV của HS người DT chủ
yếu là ở trên lớp, trong giờ học; khi về nhà các em lại nói bằng tiếng mẹ đẻ. Chính
vì thế, việc dạy học tiếng Việt gặp rất nhiều khó khăn. Vốn từ tiếng Việt của HS
người DT ở những lớp đầu cấp TH còn rất hạn chế. Thậm chí, rất nhiều HS các DT
ít người ở vùng sâu, vùng xa, hầu như chưa biết TV. Do đó, với HSDT, đặc biệt là
HS mới học TV, lời giải nghĩa từ phải thật dễ hiểu; với những lần đầu từ xuất hiện
(từ mới), chỉ nên giải nghĩa ở mức sơ giản, đủ để HS hiểu nội dung chính của câu
hoặc đoạn, bài có từ mới đó. Khi từ xuất hiện lại ở những bài sau, việc giải nghĩa sẽ
được nâng dần lên để HS hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa của từ. Người giáo viên có kinh
nghiệm cần biết chọn biện pháp thích hợp nhất giúp các em hiểu về sự vật, hoạt
động, hiện tượng, hay quan hệ, tính chất, quá trình,. . . mà từ phản ánh.
Dưới đây là một số biện pháp giải nghĩa từ và cách vận dụng những biện pháp
này trong các dạng bài TV lớp 1 cho HS người DT học TV với tư cách ngôn ngữ
thứ hai.
2.1. Một số biện pháp giải nghĩa từ cho HS người DT học TV
với tư cách ngôn ngữ thứ hai
Để dạy nghĩa từ cho HS người DT học TV với tư cách là ngôn ngữ thứ hai,
cần tuân thủ các nguyên tắc dạy học từ ngữ ở tiểu học như: nguyên tắc đồng bộ,
nguyên tắc thực hành; nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tính đến đặc điểm của từ
trong hệ thống ngôn ngữ. Mặt khác, cần lựa chọn, vận dụng một cách linh hoạt và
hợp lí các biện pháp giải nghĩa từ như: giải nghĩa bằng trực quan, giải nghĩa bằng
ngữ cảnh, giải nghĩa bằng cách so sánh, đối chiếu với từ khác, giải nghĩa bằng từ
đồng nghĩa, trái nghĩa, giải nghĩa bằng cách phân tích thành tố, giải nghĩa bằng cách
định nghĩa. . . Ngoài ra, cần chú ý vận dụng các phương pháp dạy ngôn ngữ thứ hai
vào việc giải nghĩa từ ngữ cho HS một cách hiệu quả, như: phương pháp sử dụng
tiếng mẹ đẻ của HS, phương pháp trực tiếp, phương pháp trực quan sự vật, phương
pháp trực quan hành động,. . . Cần chọn cách giải nghĩa phù hợp nhất với từ, dễ
hiểu, tiết kiệm và hiệu quả. Đôi khi, cần phối hợp nhiều cách khác nhau để giải
nghĩa một từ. Sau đây là các biện pháp thường được dùng để giải nghĩa từ cho HS
học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ thứ hai.
2.1.1. Giải nghĩa từ TV bằng tiếng mẹ đẻ của HS
Giải nghĩa từ bằng tiếng mẹ đẻ là cách chuyển dịch từ TV sang tiếng mẹ đẻ
để HS hiểu nghĩa từ TV. Cách giải nghĩa này tốn ít thời gian, học sinh tiếp nhận
và hiểu từ tiếng Việt trên cơ sở vốn từ tiếng mẹ đẻ có sẵn. Cách giải nghĩa này còn
tránh được căng thẳng trong nhận thức cho HS. Có hai mức độ:
a) Giải nghĩa từ tiếng Việt bằng từ tương đương trong tiếng mẹ đẻ của HS.
Ví dụ: Có thể giải nghĩa từ thông minh (bài đọc Anh hùng biển cả, trang 145,
SGK Tiếng Việt 1, tập 2) cho HS lớp 1 người H’mông bằng cách chuyển dịch sang
37
Nguyễn Thu Phương
từ tương đương (tiếng H’mông có từ tương đương với từ thông minh của tiếng Việt):
[zê] - chữ viết là njê.
b) Giải nghĩa từ TV qua lời giải nghĩa bằng tiếng mẹ đẻ của HS.
Cách giải nghĩa từ TV qua lời giải nghĩa bằng tiếng mẹ đẻ của HS thường
được dùng với những từ TV không có từ tương đương trong tiếng mẹ đẻ của HS.
Cách giải nghĩa từ bằng tiếng mẹ đẻ phát huy tác dụng ở giai đoạn đầu, khi
HS mới học tiếng Việt và nên dùng để dạy nghĩa của những từ ngữ chỉ đặc điểm,
trạng thái, tính chất. Giải nghĩa từ bằng tiếng mẹ đẻ là cách giải nghĩa nhanh nhất,
tiết kiệm nhất nhưng nếu lạm dụng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc tiếp nhận tiếng
Việt của HS. Để giải nghĩa từ bằng tiếng mẹ đẻ của HS, người dạy phải biết tiếng
mẹ đẻ của các em hoặc phải có trợ giảng. Nếu trong lớp có HS sử dụng được tiếng
Việt, giáo viên có thể trao đổi trước để các em trợ giúp giải nghĩa từ mới.
2.1.2. Giải nghĩa từ TV cho HS bằng trực quan sự vật (tranh ảnh, vật
thật, mô hình...)
Để giải nghĩa từ, người dạy đưa ra các vật thật, tranh ảnh. . . để giúp HS hiểu
nghĩa từ.
Ví dụ: Để giải nghĩa từ cá heo (bài đọc Anh hùng biển cả, trang 145, SGK
Tiếng Việt 1, tập 2), người dạy cho HS xem tranh cá heo và nói: Đây là cá heo.
Giải nghĩa từ bằng trực quan sự vật là biện pháp rất phù hợp đối với HS tiểu
học nói chung và cho HS học TV với tư cách là ngôn ngữ thứ hai nói riêng, vì nó
giúp cho HS hiểu nghĩa từ một cách sinh động, đơn giản, cụ thể. Nhưng cách giải
nghĩa này đòi hỏi người dạy phải chuẩn bị khá công phu về đồ dùng dạy học và khó
có thể dùng để giải nghĩa những từ trừu tượng.
Biện pháp giải nghĩa từ bằng trực quan sự vật thường được dùng khi cần giúp
HS hiểu nghĩa các từ chỉ sự vật, biện pháp này phù hợp với HS mới học TV.
2.1.3. Giải nghĩa từ TV cho HS bằng từ trực quan hành động
Giải nghĩa từ cho HS học TV với tư cách ngôn ngữ thứ hai bằng trực quan
hành động là cách giáo viên (GV) làm động tác bằng cơ thể để HS quan sát, làm
theo, nói và đọc từ theo GV, qua đó sẽ hiểu được nghĩa của từ.
Ví dụ: Để giải nghĩa các động từ ra, vào, GV có thể làm động tác đi ra, đi vào
kết hợp phát âm các từ đó. Sau đó, yêu cầu HS làm động tác và nói theo GV. Với
cách này, HS được hiểu từ qua trải nghiệm nên sẽ dễ nhớ nghĩa của từ và nhớ lâu.
Biện pháp này chủ yếu được dùng khi giải nghĩa các từ chỉ hoạt động. Giải
nghĩa từ bằng trực quan hành động giúp HS nhanh chóng hiểu và nhớ nghĩa từ. Đây
là cách giải nghĩa rất phù hợp với HS học TV là ngôn ngữ thứ hai.
2.1.4. Giải nghĩa từ trực tiếp bằng TV cho HS
Giải nghĩa từ trực tiếp bằng TV cho HS học TV với tư cách ngôn ngữ thứ hai
là cách giáo viên giúp HS hiểu nghĩa từ bằng chính TV, không cần liên hệ với tiếng
mẹ đẻ của các em. Khi giải nghĩa từ theo cách này, người dạy có thể kết hợp dùng
38
Dạy nghĩa của từ cho học sinh tiểu học học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ thứ hai
vật thật, tranh ảnh để minh họa. Chẳng hạn, để giải nghĩa Chùm cam (bài ôn tập
trang 134 - SGK Tiếng Việt 1, tập 1), có thể giải thích: nhiều quả cam trên một
cành gọi là chùm cam, đồng thời chỉ tranh vẽ chùm cam cho HS quan sát.
Giải nghĩa từ trực tiếp bằng TV được dùng khi HS đã có vốn từ TV ở một
mức độ nhất định. Khi giải nghĩa từ bằng TV cần chú ý dùng những từ ngữ, cách
diễn đạt thật đơn giản, dễ hiểu. Cách giải nghĩa này giúp cho HS được tư duy bằng
TV, được dùng TV như một công cụ để giao tiếp, qua đó vốn từ và năng lực dùng
từ của các em được củng cố và phát triển.
2.1.5. Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh
Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là cách GV giải nghĩa từ gắn với câu, đoạn, bài;
không giải nghĩa từ tách khỏi hoàn cảnh sử dụng. Theo cách này, người dạy cần
gợi mở, giúp HS dựa vào những từ ngữ đứng trước, đứng sau từ mới hoặc dựa vào
những câu trước và sau câu có từ mới để suy đoán nghĩa của từ mới. Nếu HS suy
đoán nghĩa của từ chưa đúng, GV sẽ điều chỉnh. Giúp HS học tiếng Việt với tư cách
là ngôn ngữ thứ hai hiểu nghĩa từ bằng ngữ cảnh là cách không chỉ tiết kiệm được
thời gian, công sức mà còn giúp các em ghi nhớ cách kết hợp từ mới với những từ
đứng trước và sau nó. Nếu ngữ cảnh là đoạn văn, bài văn thì ở những mức độ khác
nhau, HS có thể nhận biết một cách tự nhiên mối liên hệ giữa các câu trong đoạn
văn, bài văn.
Trên đây chúng tôi vừa trình bày một số biện pháp giải nghĩa từ cho học HS
dân tộc ít người. Trong thực tế, có thể áp dụng kết hợp một lúc các biện pháp giải
nghĩa khác nhau tùy theo đặc trưng của từ cần giải nghĩa, tùy theo đặc điểm của
tiếng mẹ đẻ của HS và tùy theo đối tượng HS. Tuy nhiên, dù sử dụng biện pháp
nào, giáo viên cũng phải hướng dẫn được HS sử dụng các từ đó vào hoạt động giao
tiếp. Bởi hoạt động giao tiếp là đích, đồng thời cũng là môi trường để dạy TV nói
chung, dạy nghĩa của từ nói riêng.
2.2. Giải nghĩa từ cho HS lớp 1 học TV với tư cách ngôn ngữ
thứ hai trong các bài học tiếng Việt
Việc giải nghĩa từ cho HS học TV với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cần được
tiến hành trong tất cả các giờ học, vì hầu như các môn học đều có cung cấp từ ngữ,
thuật ngữ, khái niệm mới. Ở mỗi giờ học, bài học việc giải nghĩa từ cần hướng tới
đích hỗ trợ và gắn với mục tiêu của bài học.
2.2.1. Giải nghĩa từ TV giờ học vần (giai đoạn đầu HS làm quen và học
TV)
Mục đích hàng đầu và quan trọng nhất của dạy học vần là trang bị cho HS
kiến thức về hệ thống chữ viết tiếng Việt. Trong giờ học vần, HS được đọc, viết âm,
vần mới (nắm được mối quan hệ giữa âm và chữ). Âm, vần mới học được ghép thành
tiếng (tiếng có nghĩa). Tiếp đó HS được học từ khóa, cụm từ và câu ứng dụng. Việc
giải nghĩa từ trong giờ học vần sẽ giúp HS xác lập được mối quan hệ giữa âm, chữ
39
Nguyễn Thu Phương
và nghĩa, hỗ trợ các em mau nhớ âm, vần mới học và tạo hứng thú cho các em trong
học tập.
Ví dụ: Khi dạy vần uôm, ươm (Bài 66, trang 134, SGK Tiếng Việt 1, tập 1)
có thể kết hợp giải nghĩa từ như sau:
+ GV cho HS xem tranh trong SGK (tranh vẽ cánh buồm và đàn bướm).
+ GV chỉ tranh và hỏi: Đây là cái gì? Đây là con gì? (Yêu cầu HS trả lời bằng
tiếng mẹ đẻ).
+ GV giới thiệu từ mới (kết hợp chỉ tranh): TV gọi là cánh buồm, đàn bướm.
+ GV chỉ tranh, nói lại bằng TV: cánh buồm, đàn bướm, yêu cầu HS nói theo.
Sau khi HS đã hiểu nghĩa từ khóa, GV giới thiệu: tiếng buồm có vần uôm ,
rồi hướng dẫn HS phân tích vần uôm, đánh vần, ghép vần, ghép tiếng. . . theo quy
trình chung. Cách giới thiệu, phân tích dạy vần ươm được làm tương tự như giới
thiệu và dạy vần uôm.
Như vậy, khi dạy vần uôm, ươm cho HS, GV đã làm nhiệm vụ giải nghĩa từ
bằng biện pháp dùng tranh ảnh (trực quan), kết hợp với dùng tiếng mẹ đẻ.
Khi luyện đọc câu ứng dụng, GV có thể vận dụng biện pháp dùng tiếng mẹ
đẻ của HS kết hợp dùng tranh ảnh để giải nghĩa bông cải, nở rộ,. . . giúp các em
hiểu nội dung câu ứng dụng: Những bông cải nở rộ nhuộm vàng cả cánh đồng. Trên
trời, bướm bay lượn từng đàn.
Việc giải nghĩa từ trong giờ học vần không chỉ có tác dụng giúp HS dễ nhớ
âm, vần mới, mà còn là cơ hội để các em được phát triển vốn từ, học cách sử dụng
từ.
2.2.2. Giải nghĩa từ TV cho HS trong giờ chính tả
Giải nghĩa từ cho HS trong dạy học chính tả là giúp HS hiểu nghĩa từ ngữ
trong bài tập chép, bài chính tả nghe - viết hoặc trong các bài tập. Đây là một trong
những cơ sở để HS viết đúng, làm đúng các bài tập chính tả. Giải nghĩa các từ mới,
các từ HS thường viết sai sẽ giúp các em dựa vào nghĩa để nhớ và phân biệt cách
viết.
Ví dụ: Khi dạy bài chính tả Nghe - viết Ò. . . ó. . . o ( SGK Tiếng Việt 1, tập 2,
trang 150), để giúp HS không mắc lỗi tr/ch, có thể giải nghĩa từ tre trong bài viết
bằng cách: cho HS xem tranh vẽ cây tre hoặc chỉ cây tre thật (nếu có). GV giúp HS
phân biệt nghĩa của tre với nghĩa của che (làm động tác minh họa cho từ che hoặc
giải nghĩa bằng tiếng mẹ đẻ). Khi đã hiểu nghĩa, phân biệt được nghĩa của tre và
che, HS sẽ phân biệt được cách viết và viết đúng.
2.2.3. Giải nghĩa từ cho HS trong giờ tập đọc
Mục đích của dạy học tập đọc là giúp HS đọc trôi chảy và hiểu nội dung bài
đọc. Để hiểu được bài đọc, HS cần hiểu các từ ngữ trong bài. Ở mỗi bài tập đọc,
người dạy cần chọn ra những từ ngữ mới hoặc từ ngữ khó, từ quan trọng để giải
nghĩa. Khác với HSTH học TV với tư cách là tiếng mẹ đẻ, HSDT, HS học TV với
40
Dạy nghĩa của từ cho học sinh tiểu học học tiếng Việt với tư cách ngôn ngữ thứ hai
tư cách là ngôn ngữ thứ hai có thể cần được giải nghĩa số lượng từ ở mỗi bài tập
đọc nhiều hơn. Mức độ giải nghĩa từ chỉ nên đủ để hiểu nghĩa tường minh, hiểu nội
dung chính của bài tập đọc. Với HSDT ở những lớp cuối cấp tiểu học hoặc những
HS đã có vốn từ TV phong phú mới đặt ra yêu cầu giải nghĩa từ ở tất cả các bình
diện: nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa văn chương. . .
Ví dụ: Ở bài tập đọc Ngưỡng cửa (Tuần 8 phần Luyện tập tổng hợp - SGK
Tiếng Việt 1 tập 2) cần giải nghĩa từ Ngưỡng cửa ở mức độ đơn giản: đó là nơi đầu
tiên người thân dắt em bước ra ngoài để tập đi; từ nơi đó, em tự bước ra ngoài để
gặp bạn bè, để đi học. . . Có thể giải nghĩa từ này bằng cách dùng tiếng mẹ đẻ của
HS và kết hợp chỉ tranh minh họa.
Khi chọn và giải nghĩa từ trong bài tập đọc, người dạy cần chú ý tạo điều
kiện và giúp HS hiểu nghĩa từ trong ngữ cảnh của câu hoặc đoạn, bài. Trong bài
tập đọc có những từ mới HS có thể hiểu nghĩa nhờ ngữ cảnh, không nên giải nghĩa
bằng những cách khác. Có thể làm rõ ý này qua bài tập đọc Con quạ thông minh:
CON QUẠ THÔNG MINH
(1) Một con quạ khát nước. (2) Nó tìm thấy một chiếc lọ có nước. (3) Song
nước trong lọ có ít, cổ lọ lại cao, nó không sao thò mỏ vào uống được. (4) Quạ liền
nghĩ ra một kế. (5) Nó lấy mỏ gắp từng hòn sỏi bỏ vào lọ. (6) Nước dâng lên dần
dần. (7) Thế là quạ tha hồ uống. (SGK Tiếng Việt 2, tập 1, trang 155).
Nhờ các từ ngữ ở câu (4), và các câu đứng trước, đứng sau (ngữ cảnh), HS có
thể suy ra nghĩa của từ kế. Nếu giải nghĩa từ này bằng tiếng mẹ đẻ của HS hoặc
giải nghĩa trực tiếp bằng tiếng Việt là không tận dụng được ngữ cảnh, không “tối
ưu” trong dạy học.
Trong bài tập đọc, nếu có những câu văn được dùng với nghĩa bóng, không
nên giải nghĩa từng từ mà cần giúp HS hiểu nghĩa cả câu.
Ví dụ: HS không thể hiểu câu văn Trường học là ngôi nhà thứ hai của em (Bài
tập đọc Trường em trang 46- SGK Tiếng Việt 1, tập 2) bằng cách hiểu và ghép
nghĩa của từng từ trong câu. Bởi vậy phải giải nghĩa cả câu và nhờ ngữ cảnh của
bài tập đọc, HS mới có thể hiểu được ý tác giả muốn gửi gắm trong câu văn và hiểu
nội dung toàn bài.
2.2.4. Giải nghĩa từ tiếng Việt cho HS trong giờ kể chuyện
HS hiểu nội dung truyện, kể lại được bằng tiếng Việt các nhân vật, sự việc,
tình tiết chính của cốt truyện là mục tiêu cần đạt ở các giờ dạy học kể chuyện. Muốn
đạt được mục tiêu ấy, trước hết HS phải hiểu từ, vì các từ ngữ sẽ giúp HS hiểu nội
dung, nhớ và kể lại được câu chuyện. Do đó, việc giải nghĩa từ trong dạy học kể
chuyện là rất cần thiết. Những từ mới, từ khó, từ quan trọng. . . cần được ưu tiên
giải nghĩa. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, GV sẽ chọn cách giải nghĩa thích hợp
(tương tự như cách chọn và giải nghĩa từ trong dạy học tập đọc). Trong dạy học kể
chuyện, sau khi giải nghĩa từ ngữ (bằng tranh ảnh, vật thật, bằng trực quan hành
động, bằng tiếng mẹ để của HS,. . . ), GV có thể giới thiệu thêm những từ ngữ đồng
41
Nguyễn Thu Phương
nghĩa, gần nghĩa để HS sử dụng khi kể lại câu chuyện.
VD: Nếu dạy HS kể chuyện Con quạ thông minh, sau khi giải nghĩa bằng tiếng
mẹ đẻ cho HS hiểu từ thông minh, nên giới thiệu thêm các từ gần nghĩa với từ thông
minh như: khôn, khôn ngoan, giỏi, nhanh trí. . .
3. Kết luận
Dạy nghĩa từ là nhiệm vụ cần thực hiện ở mỗi giờ học Tiếng Việt nhằm giúp
HS học tập thuận lợi, đạt mục tiêu của mỗi bài học. Tuy nhiên, việc giải nghĩa quá
nhiều từ một cách tuỳ tiện không giúp cho vốn từ của HS phát triển như mong đợi.
Bởi vì các em không ghi nhớ kịp hình thức, ý nghĩa và cách sử dụng quá nhiều từ
trong một thời gian ngắn. Do vậy, GV cần lựa chọn những từ cần giải nghĩa trong
mỗi bài và cách giải nghĩa phù hợp với mỗi từ, với điệu kiện thực tế của địa phương,
phù hợp với vốn ngôn ngữ, vốn sống của HS. Làm được như vậy, HSTH học TV với
tư cách là ngôn ngữ thứ hai - trong đó có HS các DT thiểu số trên lãnh thổ Việt
Nam - sẽ thuận lợi hơn trong học tập, giao tiếp và có điều kiện để đạt chuẩn kiến
thức kĩ năng môn tiếng Việt ở cuối cấp tiểu học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, 1996. Phương pháp dạy học Tiếng
Việt. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[2] Lê Phương Nga, 2010. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2. Nxb Đại
học Sư phạm.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo & UNICEF, 2007. Giáo dục song ngữ dựa trên tiếng
mẹ đẻ. Tài liệu lưu hành nội bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[4] C. Baker, 1997. Foundations of Bilingual Education and Bilingualism. Multilin-
gual Matters Ltd: Clevedon, Philadelphia, Sydney.
[5] J. Echevarria (ed.), 1998. Teaching Language Minority Students in Elementary
Schools. Calif. Stat. Univ.
ABSTRACT
Teaching Vietnamese as the second language
for primary school pupils by focusing mainly
on conveying the meaning of word in the language
This article supplies main methods teachers can use to teach meanings of
words. The methods used in teaching word meaning in the bilingual classroom are
literal translation through mother language, direct method, Total Physical Response
and definition of word meanings. Teachers can also assist students with specific
techniques and practice in contextual guesswork. Guided discovery involves asking
questions or offering examples that guide students to guess meanings correctly.
42