Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị cũng như về kinh
tế. Đặc biệt trong những năm 90, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt
bậc, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao duy trì ở mức 8%, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế
dưới 10%, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào
tháng 4/2001 có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kì mới phát triển đất nước trong
những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là: đẩy mạnh Công nghiệp hóa-Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp. Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005) là nhịp độ tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm là 7,5%. Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 1995, tăng tỷ
trọng nông lâm- ngư nghiệp là 20- 21%, công nghiệp và xây dựng 38- 39%, các ngành
dịch vụ 41- 42%. Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, để thực hiện được những mục tiêu đề ra, nhu cầu về vốn của toàn bộ nền
kinh tế là vô cùng lớn, ước tính vốn trung bình mỗi năm cho kế hoạch 5 năm tới cần
khoảng 30- 35 tỷ USD. Do đó, việc tìm ra giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn cho
đầu tư phát triển trở thành một nhiệm vụ quan trọng hiện nay không chỉ của Nhà nước,
của ngành ngân hàng mà còn là của toàn dân. Bên cạnh các kênh huy động vốn cho các
doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... thì hiện
nay chúng ta đang áp dụng loại hình tín dụng mới, đó là cho thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1998, là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong việc đa dạng hoá các loại hình tín
dụng, thúc đẩy hoạt động của thị trường cho thuê nói riêng và thị trường vốn nói chung
tại Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước
83 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển
hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài
chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam
Lời nói đầu
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị cũng như về kinh
tế. Đặc biệt trong những năm 90, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt
bậc, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao duy trì ở mức 8%, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế
dưới 10%, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào
tháng 4/2001 có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kì mới phát triển đất nước trong
những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là: đẩy mạnh Công nghiệp hóa-
Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp. Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005) là nhịp độ tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm là 7,5%. Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 1995, tăng tỷ
trọng nông lâm- ngư nghiệp là 20- 21%, công nghiệp và xây dựng 38- 39%, các ngành
dịch vụ 41- 42%. Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, để thực hiện được những mục tiêu đề ra, nhu cầu về vốn của toàn bộ nền
kinh tế là vô cùng lớn, ước tính vốn trung bình mỗi năm cho kế hoạch 5 năm tới cần
khoảng 30- 35 tỷ USD. Do đó, việc tìm ra giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn cho
đầu tư phát triển trở thành một nhiệm vụ quan trọng hiện nay không chỉ của Nhà nước,
của ngành ngân hàng mà còn là của toàn dân. Bên cạnh các kênh huy động vốn cho các
doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... thì hiện
nay chúng ta đang áp dụng loại hình tín dụng mới, đó là cho thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1998, là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong việc đa dạng hoá các loại hình tín
dụng, thúc đẩy hoạt động của thị trường cho thuê nói riêng và thị trường vốn nói chung
tại Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước
Do loại hình cho thuê còn mới mẻ nên việc nghiên cứu nội dung hoạt động, môi
trường kinh doanh, cơ cấu tổ chức... và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động
này tại Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam là hết sức cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian thực
tập tại Công ty em đã chọn đề tài: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động
cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Tiếp cận hoạt động cho thuê tại các Công ty Cho thuê Tài chính.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I-
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công
ty cho thuê tài chính I.
.
Chương I:
Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính
1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản.
Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử khá lâu đời và diễn ra
trong hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều lĩnh vực trên thế giới.
Theo các thư tịch cổ, các giao dịch cho thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước
Công nguyên tại thành phố Sumerian. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người
thuê là những nông dân tự do. Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất
nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa, đất ruộng...
Vào khoảng năm 1700 tr.C.N, vua Babilon là Hamnurabi đã ban hành nhiều văn
bản quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có đưa ra những quy định về hoạt
động cho thuê tài sản.
Trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp- La Mã hay Ai Cập cũng đã
xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản
xuất. Có thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay đã gặp phải
đã được giải quyết từ nhiều thế kỉ trước.
Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu
truyền thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự
như phương thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại
của nó, đã không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.
Đầu thế kỉ XIX, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và
chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỉ XX, giao dịch thuê
mua đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kì. Nguyên nhân của sự phát
triển này là do sự hoạt động thuê mua đã có những thay đổi về tính chất của giao dịch.
Nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua
thuần (Net lease) hay thuê tài chính (Finance lease), thuê tư bản (Capital lease) đã được
sáng tạo ra trước tiên ở Hoa Kì. Đó là sự ra đời của công ty tư nhân United States
Leasing Corporation.
Sau đó nghiệp vụ leasing phát triển sang châu Âu và đã được ghi vào luật thuê
mua của Pháp (năm 1960) với tên gọi “credit bail”. Cũng năm 1960 hợp đồng thuê mua
đầu tiên đã được thảo ra ở Anh có trị giá 18000USD
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài sản, các hoạt động giao dịch thuê mua đã
có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ cả về chủng loại tài sản, thiết bị và khối
lượng giao dịch. Trong giao dịch thuê mua ngày nay, các công ty Leasing có thể cho
thuê cả những nhà máy hoàn chỉnh theo phương thức chìa khoá trao tay. Đồng thời về
mặt chủng loại hoạt động cho thuê bao gồm từ thiết bị, dụng cụ văn phòng cho tới
những toà nhà lớn, thậm chí cả những tổ hợp năng lượng nguyên tử. Chỉ tính riêng tại
Hoa Kỳ, tổng số vốn thiết bị cho thuê năm 1987 ước tính lên tới 107,9 tỷ $ và có tốc độ
gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay, ngành thuê mua thiết bị Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% -
30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm. Còn ở Anh, theo
một công bố mới đây của hiệp hội tín dụng thuê mua thiết bị, thuê vận hành chiếm
khoảng 20% vốn tài trợ cho các hoạt động thuê mua và năm 1993 tổng giá trị ngành
công nghiệp thuê mua đạt 49 tỷ USD.
Tín dụng thuê mua cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu á và
nhiều khu vực khác kể từ đầu thập niên 70. Theo một thống kê gần đây cho thấy, ngành
công nghiệp thuê mua thế giới có giá trị trao đổi chiếm khoảng350 tỷ USD vào năm
1994 và đến năm 1998 con số này đã là 450 tỷ USD.
ở Việt Nam, trong điều kiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn và mang tính cấp bách hơn bao giờ hết, thì sự
ra đời của các công ty cho thuê tài chính- một kênh dẫn vốn trung gian- đã bước đầu tạo
được chỗ đứng của mình trên thị trường. Cho đến nay, Việt Nam đã có 9 công ty cho
thuê tài chính, với lượng vốn đầu tư khoảng 850 tỷ VNĐ/ năm. Tuy lượng vốn đầu tư
này còn khá khiêm tốn so với nhu cầu vốn của nền kinh tế song phần nào đã đáp ứng
cho việc cung cấp và cải thiện các loại máy móc thiết bị cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Như vậy, hoạt động cho thuê tài sản được thể hiện trước hết ở thoả thuận thuê tài
sản là thoả thuận mà theo đó, người cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản sang người
thuê trong một thời gian nhất định, được thoả thuận trước để nhận được những khoản
tiền thuê.
Một thoả thuận thuê tài sản phải có những đặc điểm sau:
* Thời gian cho thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn đời sống hữu ích của
tài sảnvà không thể huỷ ngang theo ý muốn của một bên.
* Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động cho thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý
đối với tài sản thuộc về người cho thuê, và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê.
Phần lớn các chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro, thuế và các lợi ích phát sinh trong quá
trình sử dụng tài sản được chuyển từ người cho thuê sang người thuê.
* Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định kỳ bao
gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý và các chi phí quản lý khác.
Do đó, giống như hình thức tín dụng Ngân hàng, hoạt động cho thuê tài sản cũng mang
tính hoàn trả, tính thời hạn và lãi suất. Như vậy về thực chất, hoạt động cho thuê tài sản
(leasing) là một hình thức tài trợ nếu xét từ phương diện người cho thuê.
Như vậy, có thể định nghĩa hoạt động cho thuê tài sản dựa vào Nghị định số
16/2001/ NĐ- CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính
là “ Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc,
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và
nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. Có thể
nhận rõ hình thức này qua việc so sánh giữa cho thuê tài sản và thuê mua trả góp thông
qua bảng so sánh sau:
Tiêu thức Cho thuê tài sản Thuê mua trả góp
a- Tài sản cho thuê
Bao gồm tất cả các loại tài sản
và không có thế chấp.
Bao gồm tất cả các loại tài
sản và có thế chấp hoặc
b- Người thuê
c- Thời hạn hợp đồng
d- Huỷ ngang hợp đồng
e- Giá trị còn lại của tài
sản
f- Bảo trì, mua bảo hiểm
g- Mục đích
h- Quyền sở hữu
i- Tính toán để khấu trừ
Các pháp nhân
Có thời hạn khá dài: từ 1 đến
20 thậm chí 30 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Có thể chuyển giao cho người
thuê khi hợp đồng hết hạn.
Do người thuê thực hiện.
Đảm bảo cho người thuê đổi
mới công nghệ kịp thời.
Thuộc quyền người cho thuê
và có thể được chuyển giao
cho người thuê.
Tổng số tiền thuê.
không có thế chấp.
Các pháp nhân và thể nhân.
Có thòi hạn trung bình từ 1
đến 5 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Chuyển giao cho người thuê
khi kết thúc hợp đồng.
Do người thuê thực hiện.
Tài sản được khấu hao
nhanh và không dễ bị lạc
hậu.
Chuyển giao cho người thuê
vào thời điểm kết thúc hợp
đồng.
Tổng tiền lãi và khấu hao.
Nếu chỉ xem xét về mặt thuật ngữ thôi thì ta thấy rằng đã có rất nhiều vấn đề.
Khái niệm này được chính thức đưa ra đầu tiên trong pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã
tín dụng và công ty tài chính với tên gọi là "tín dụng thuê mua" nhưng không có định
nghĩa. Năm 1993, trong bản nghiên cứu của công ty tài chính quốc tế (IFC) đưa ra thuât
ngữ "thuê mua" và "tài trợ thuê mua". Nhìn chung từ đó đến nay, hai từ "thuê mua" và
"tín dụng thuê mua" được dùng phổ biến. Tuy vậy, vẫn không có một định nghĩa đầy đủ
được chấp nhận thống nhất. Nhiều người quan niệm thuê mua bao gồm cả cho thuê vận
hành (quan niệm này dẫn đến mâu thuẫn trong chính thuật ngữ). Một số khác cho rằng
thuê mua không bao gồm cho thuê vận hành và đưa ra khái niệm "thuê mua thuần" để
phân biệt.
Nghị định số 16/ CP của chính phủ ngày 31/05/2001 đưa ra khái niệm "cho thuê
tài chính" và như vậy dùng thay thế từ "tín dụng thuê mua". Tuy nhiên, ngoài các văn
bản có tính chất pháp lý ra thì trên thực tế từ này rất ít được sử dụng. Để đảm bảo tính
thống nhất trong luận văn từ phần này trở về sau, em xin sử dụng thuật ngữ "cho thuê".
1.2. Phương thức cho thuê
Cho thuê là một phương thức tài trợ tín dụng trung, dài hạn không thể huỷ ngang
bằng tài sản chứ không phải bằng tiền. Theo phương thức này, người cho thuê thường
mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua
tài sản đó với nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người thuê.
Tuỳ theo quy định của _ong quốc gia, nghiệp vụ này được coi là cho thuê tài sản khi
thời hạn thuê mua thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và giá trị hiện tại
ròng của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại
thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Thông thường một giao dịch cho thuê thường được chia thành ba phần như sau:
+ Thời hạn thuê cơ bản (Basic lease period): là thời hạn mà người thuê trả những khoản
tiền thuê cho người cho thuê để được quyền sử dụng tài sản. Trong _ong giai đoạn này,
người cho thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ số tiền đã bỏ ra ban đầu cộng với tiền lãi trên
số vốn đã tài trợ. Đây là thời hạn mà tất cả các bên không được quyền huỷ ngang hợp
đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia.
+ Thời hạn gia hạn tuỳ chọn (Optional renewal Period): Trong giai đoạn gia hạn thứ hai
này, người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai
đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1- 2
% tổng số vốn đầu tư ban đầu và thường phải trả trước vào đầu mỗi kỳ thanh toán.
+ Phần giá trị còn lại (Residual Value Share): Theo thông lệ, tại thời điểm kết thúc giao
dịch cho thuê người cho thuê thường uỷ quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản.
Người thuê được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho
thuê đưa ra, hoặc được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng
bán hàng.
Khi thời hạn cho thuê căn bản đáo hạn, người thuê có quyền lựa chọn một trong
những hình thức mua lại tài sản với giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả
thuận đã được dự liệu trước trong hợp đồng – hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê
tài sản hoặc nhận làm đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ quyền của người cho thuê.
Phương thức cho thuê được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1.1 Phương thức cho thuê
1.2.1. Phân loại các phương thức cho thuê tài sản:
Nhằm so sánh những đặc điểm của các phương thức thuê tài sản với nhau để từ
đó giúp các bên có liên quan dễ dàng phân loại, nhận diện giao dịch thuộc phương thức
thuê nào để áp dụng các quy chế hạch toán, kế toán, hưởng các ưu đãi (nếu có) và quản
lý chúng (đối với các cơ quan Nhà nước) theo những quy chế đã được Nhà nước quy
định. Trong hình thức thuê tài sản có hai phương thức cho thuê vận hành và cho thuê tài
chính hay còn gọi là thuê ngắn hạn và thuê dài hạn. Bởi cho thuê vận hành là hình thức
cho thuê kiểu truyền thống, có thời hạn rất ngắn (khoảng 1- 5 năm) so với đời sống hữu
ích của tài sản. Cho thuê dài hạn hay còn gọi là cho thuê tài chính có thời hạn cho thuê
dài hơn (từ trên 1 năm đến 20 – 30 năm). Sự khác biệt có thể được xem xét trong bảng
sau :
Bảng 1.2 So sánh cho thuê vận hành và cho thuê
ST Tiêu thức Thuê vận hành Thuê tài chính
Người cho
thuê
Hợp đồng
thuê TS
Quyền sử
dụng TS
Trả tiền
thuê TS
Người
thuê
HĐ
mu
a
bá
n
tà
i
Quyền
sở
hữu
pháp
lý
đối
với
Tr
ả
ti
ền
mu
a
tà
Giao
tài
sản
Bảo
trì
và
phụ
tùn
g
tha
y
Trả
tiền
Bảo
trì
và
phụ
tùng
Nhà cung cấp
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Quyền sở hữu
Thời hạn thuê
Quyền huỷ ngang
hợp đồng
Rủi ro
Chi phí bảo trì, dịch
vụ và mua bảo hiểm
Ưu đãi về thuế
Bồi thường bảo
hiểm
Cung ứng tài sản
thuê.
Tiền bán tài sản.
Các loại tài sản
thường sử dụng
trong giao dịch.
Tách biệt quyền sở hữu pháp lý
và quyền sử dụng
Rất ngắn so với đời sống hữu
ích của tài sản
Được quyền huỷ ngang hợp
đồng
Người cho thuê chịu mọi rủi ro
thiệt hại
Người cho thuê chịu mọi chi
phí vận hành, bảo trì, dịch vụ,
phí bảo hiểm.
Người cho thuê hưởng và khấu
trừ vào tiền thuê.
Người cho thuê hưởng
Tài sản thuê mướn thường do
người cho thuê cung cấp.
Toàn bộ tiền thu được do bán
tài sản thuê thuộc quyền sử
dụng của người cho thuê.
Máy photocopy, máy vi tính, xe
ôtô, đồ đạc trong nhà, văn
phòng….
Như thuê vận hành
Thường dài hơn một nửa cho
tới bằng đời sống hữu ích của
tài sản.
Không được quyền huỷ ngang
hợp đồng
Người thuê chịu mọi rủi ro thiệt
hại.
Người thuê chịu mọi chi phí
vận hành, bảo trì, dịch vụ, phí
bảo hiểm.
Tương tự như thuê vận hành.
Người cho thuê hưởng
Tài sản cho thuê thường do
người thuê đặt hàng, giao nhận
và sử dụng.
Phần tiền bán tài sản lớn hơn so
với giá quy định của người cho
thuê được chuyển cho người
thuê hưởng như một khoản hoa
_ong bán hàng hay được khấu
trừ vào tiền thuê.
Bất động sản, xe lửa, tàu biển,
máy bay, thiết bị văn phòng…
Sự phân loại này được dựa trên hai căn cứ cơ bản là :
+ Những rủi ro và biện pháp bảo đảm cho giá trị còn lại của tài sản thuê do bên nào thực
hiện.
+ Quyền sử dụng và hưởng dụng toàn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản thuê mang lại có
được chuyển giao cho người thuê hay không ?
Dựa trên những cơ sở này, Uỷ Ban Tiêu Chuẩn Kế Toán Quốc Tế (IASC) đã đề
ra 4 tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các hợp đồng thuê tài sản
thuộc phương thức nào:
Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc
hợp đồng không ? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính còn không thì là thuê vận
hành.
Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp
đồng với giá tượng trưng không ? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, còn nếu không thì
là thuê vận hành
Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản
thuê hay không ? Nừu thoả mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính, các trường hợp còn
lại thuộc thuê vận hành.
Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiểu do người thuê trả có
tương đương hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng
không ? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, nếu không là thuê vận hành.
Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thoả mãn một trong bốn tiêu chuẩn này đều
thuộc phương thức thuê tài chính. Những giao dịch còn lại thuộc thuê vận hành.
Sơ đồ 1.2 tóm tắt quy trình phân loại này
Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại theo IAS 17 của IASC, mỗi quốc gia đều có
những quy định cụ thể trong luật thuê mua của họ dựa trên cơ sở những điều kiện của
mỗi nước. Những quy định này có những khác biệt nhất định, song về cơ bản chúng
không mâu thuẫn với IAS 17 và tuỳ theo mức độ những quy định này có thể chi tiết cụ
thể hơn IAS 17.
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê:
Tuỳ theo tính chất trong _ong giao dịch thuê mua mà có thể phân loại các thoả
thuận thành nhiều loại hợp đồng khác nhau.
1.2.2.1. Hợp đồng cho thuê trực tiếp:
Trong loại hợp đồng này, người cho thuê sử dụng thiết bị của họ có sẵn trực tiếp
tài trợ cho người thuê. Người cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài
chính và cũng có thể là công ty Leasing, sử dụng tài sản của họ tài trợ cho người thuê.
Đây là một hình thức tài trợ mà các nhà sản xuất thường sử dụng để đẩy mạnh
tiêu thụ sản phẩm do họ sản xuất ra .Mặt khác, nhờ luôn cập nhật những công nghệ mới
Tài
Quyền sở hữu
được chuyển
giao khi thời
Hợp đồng thuê có
quy định quyền
chọn mua theo
Thời hạn thuê
chiếm phần lớn
thời gian hữu
Giá trị hiện
tại của các
khoản tiền thuê
tối thiểu lớn
hơn hay tương
Thuê vận hành Thuê tài
chính
Có
Không
Có
Có
Có
Không
Không
Không
để chế tạo ra các loại máy móc, thiết bị nên các nhà sản xuất có thể mua lại những thiết
bị đã lạc hậu về mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp các loại máy móc mới ,hiện đại do
họ chế tạo ra.
Sơ đồ 1.3 – Hợp đồng tài trợ trực tiếp.
Người cho thuê Người thuê
1- Sử dụng các máy móc,thiết bị của chính
họ để cho thuê.
2- Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ.
3- Cung cấp các phụ tùng và dịch vụ bảo trì
cùng với thiết bị theo hợp đồng phụ.
4- Nhận các khoản tiền thuê và những hoản
tiền dịch vụ theo hợp đồng phụ.
5- Nhận lại tài s