Dân tộc Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những dân tộc có 
truyền thống yêu nước sâu sắc. Nhân loại đã biết đến chúng ta với những kỳ tích 
chặn đứng vó ngựa trường chinh bách chiến bách thắng của quân Mông Cổ, với 
chiến công Điện Biên Phủ với chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó là những trang sử hào 
hùng của dân tộc ta trong lịch sử hàng nghìn năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Còn hiện nay - trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI - Việt Nam là một đất nước thuộc 
nhóm nghèo nhất thế giới thu nhập bình quân đầu người chưa đầy 300 USD chúng 
ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu. Sự thật đó để lại trong lòng mỗi chúng ta 
những cảm xúc sâu sắc. Tại sao vậy? Đó là vì kinh tế có những yêu cầu và quy 
luật riêng của nó. Những chiến thắng trên mặt trận không thể làm ra được những 
chiến công về kinh tế, sách lược chiến trường không thể là chiến lược về kinh tế. 
Một thời gian chúng ta đã ngộ nhận xem lợi nhuận là cái gì xấu xa, là phạm trù 
không có ở CHXH. Sản xuất là chỉ để phục vụ chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. 
Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên CHXH, chúng ta đang vận hành đất nước theo 
cơ chế thị trường trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ 
mô của Nhà nước thì lợi nhuận chính là quan toà công minh nhất là để phán xét sự 
tồn tại phát triển của mọi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì thị trường sẽ loại doanh 
nghiệp đó ra khỏi sân khấu kinh tế, và nếu ngược lại thì doanh nghiệp được tiếp 
tục phát triển, lợi nhuận phải thực sự từ năng suất chất lượng - hiệu quả trong sản 
xuất - kinh doanh chân chính từ tài năng quản lý sản xuất kinh doanh hiện đại mà 
tạo ra giá trị lợi nhuận cả về kinh tế văn hoá - một truyền thống và cốt cách người 
Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 31 trang
31 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc của lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Nguồn gốc của lợi nhuận và vai 
trò của nó đối với sự phát triển 
kinh tế của Việt Nam 
Lời mở đầu 
Dân tộc Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những dân tộc có 
truyền thống yêu nước sâu sắc. Nhân loại đã biết đến chúng ta với những kỳ tích 
chặn đứng vó ngựa trường chinh bách chiến bách thắng của quân Mông Cổ, với 
chiến công Điện Biên Phủ với chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó là những trang sử hào 
hùng của dân tộc ta trong lịch sử hàng nghìn năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Còn hiện nay - trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI - Việt Nam là một đất nước thuộc 
nhóm nghèo nhất thế giới thu nhập bình quân đầu người chưa đầy 300 USD chúng 
ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu. Sự thật đó để lại trong lòng mỗi chúng ta 
những cảm xúc sâu sắc. Tại sao vậy? Đó là vì kinh tế có những yêu cầu và quy 
luật riêng của nó. Những chiến thắng trên mặt trận không thể làm ra được những 
chiến công về kinh tế, sách lược chiến trường không thể là chiến lược về kinh tế. 
Một thời gian chúng ta đã ngộ nhận xem lợi nhuận là cái gì xấu xa, là phạm trù 
không có ở CHXH. Sản xuất là chỉ để phục vụ chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. 
Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên CHXH, chúng ta đang vận hành đất nước theo 
cơ chế thị trường trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ 
mô của Nhà nước thì lợi nhuận chính là quan toà công minh nhất là để phán xét sự 
tồn tại phát triển của mọi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì thị trường sẽ loại doanh 
nghiệp đó ra khỏi sân khấu kinh tế, và nếu ngược lại thì doanh nghiệp được tiếp 
tục phát triển, lợi nhuận phải thực sự từ năng suất chất lượng - hiệu quả trong sản 
xuất - kinh doanh chân chính từ tài năng quản lý sản xuất kinh doanh hiện đại mà 
tạo ra giá trị lợi nhuận cả về kinh tế văn hoá - một truyền thống và cốt cách người 
Việt Nam. Hơn bao giờ hết, lợi nhuận là sự sống còn của doanh nghiệp, là động 
lực phát triển, bởi thế em chọn đề tài : 
"Nguồn gốc của lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của 
Việt Nam" 
phần i 
nguồn gốc của lợi nhuận 
i. các quan điểm trước mác về lợi nhuận: 
1. Quan điểm của trường phái trọng thương: 
Trường phái này ra đời từ giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17 trong điều kiện 
chế độ phong kiến bị tan rã và chủ nghĩa tư bản thực hiện tích luỹ nguyên thuỷ của 
tư bản. Họ là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn gốc, đi tìm lợi nhuận 
trong lưu thông. Họ đã sống trong thời đại tư bản tư nhân và ngoài tư bản tư nhân 
ra, họ không biết một hình thái tư bản nào khác, họ cũng không biết một hình thức 
lợi nhuận nào khác ngoài lợi nhuận thương nghiệp. Vì tư bản thương nghiệp chỉ 
hoạt động trong lưu thông nên không thấy làm lạ gì họ chỉ chú ý đến lưu thông. 
Theo họ lợi nhuận thương nghiệp là kết quả do lưu thông, mua bán trao đổi sinh 
ra, là do kết quả của việc mua rẻ bán đắt mà có. 
2. Quan điểm của trường phái trọng nông: 
Trường phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế 
từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Đây là một bước tiến bộ so với trọng 
thương. Trong phái trọng nông là các nhà kinh tế học Pháp thế kỷ 18 nhưng họ 
vẫn nêu ra được một lý luận đúng đán về lợi nhuận. Tư tưởng của họ là: sản phẩm 
thặng dư, do đó cả lợi nhuận nữa cũng được tạo ra trong nông nghiệp. Vì vậy, họ 
chỉ coi lao động trong nông nghiệp là lao động sản xuất, còn mọi lao động khác - 
không những trong thương nghiệp mà cả trong nông nghiệp đều bị họ coi là lao 
động không sinh lợi. 
3. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh: 
Các nhà kinh tế chính trị cổ điển anh như: Adam Smith và David Ricardo 
đều phân tích lý luận về lao động. Trene thực tế họ coi lợi nhuận là kết quả của lao 
động thặng dư. Nhưng họ không trình bày nguyên lý đó một cách rõ ràng, chưa 
nêu ra được một lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. 
+ Theo Adam Smith, lợi nhuận tham gia vào việc hình thành giá trị với tư 
cách một nhân tố hình thành giá cả nhưng chưa nêu được nguồn gốc của lợi 
nhuận. 
+ Ricardo đã đi xa hơn Smith. Theo ông, lợi nhuận và tiền công là 2 bộ 
phận của giá trị lao động tạo nên. Ông đã đưa ra một số kết quả quan trọng là: lợi 
nhuận và tiền công đối lập nhau. Sự tăng hay giảm của một trong hai yếu tố đó đều 
sẽ gây ra sự giảm hay tăng của yếu tố kia. Từ đó, Ricardo cũng khẳng định việc 
tăng hay giảm lợi nhuận hoặc tiền công không có ảnh hưởng gì đến giá cả mà chỉ 
ảnh hưởng đến sự phân phối giá trị giữa công nhân với các nhà tư bản. Vậy, 
Ricardo đã quy lợi nhuận thành giá trị thặng dư. Tuy nhiên, Ricardo vẫn không 
nêu ra được khái niệm giá trị thặng dư. Khi nói đến năng suất lao động, ông không 
coi đó là nguyên nhân quyết định của lượng giá trị thặng dư mà thôi. Như vậy, 
Ricardo đã bỏ qua giá trị thặng dư và chỉ quan tâm đến hình thái học của nó: lợi 
nhuận, lợi tức, lợi tô, những cái mà ông đã quy về nguồn gốc của chúng, về lao 
động không được trả công. Sai lầm của Ricardo ở chỗ coi chủ nghĩa tư bản là một 
hình thức tư bản của nền sản xuất xã hội nên ông đã có nhiều luận điểm sai lầm và 
mâu thuẫn. 1 - Mức tăng của lợi nhuận phụ thuộc vào mức tăng của năng suất 
lao động, nhưng Ricardo lại hoàn toàn không hiểu rõ thực chất của lợi nhuận 
ở chỗ: Một mặt lợi nhuận là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư, mặt 
khác nó là hình thái đặc biệt của giá trị thặng dư. 2 - Lợi nhuận và tiền công là 
hai bộ phận của cùng một giá trị do lao động quyết định. 
Nhìn chung, các nhà kinh tế cổ điển đã chuyển việc nghiên cứu các hiện 
tượng kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất nên họ đã xây dựng 
khoa kinh tế chính trị học với tư cách là một môn khoa học. Do không hiểu được 
đặc điểm của nền sản xuất tư bản chủ nhgiã nên họ không thể giải quyết cả vấn đề 
tư bản lẫn vấn đề lợi nhuận. Chỉ có Mác, sau khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản 
chủ nghĩa như là sự thống nhất giữa hai giai đoạn sản xuất tư bản chủ nghĩa và gia 
đoạn lưu thông tư bản chủ nghĩa mới quy được lợi nhuận thành giá trị thặng dư tức 
là nghiên cứu lợi nhuận dưới hình thái chung nhất của nó. 
ii. học thuyết giá trị thặng dư và lý luận lợi nhuận của c.mác 
1. Sự tạo ra giá trị thặng dư: 
Trong nền sản xuất hàng hoá sựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá 
trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là vật 
mang giá trị trao đổi. Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá 
trị trao đổi, nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một 
hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao 
động mà nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra giá trị thặng dư. 
Để hiểu rõ quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, người ta nghiên cứu bài toán sau 
đây: 
Chi phí TBCH để sản xuất, gồm có chi phí về tư bản bất biến và tư bản khả 
biến, tức là những chi phí về tư liệu sản xuất và tiền lương công nghiệp. Đối với tư 
bản hàng hoá đáng giá bao nhiêu là tính theo tư bản đã chi phí, đối với xã hội hàng 
hoá đáng giá bao nhiêu là tính theo lao động đã hao phí. Bởi vậy, những chi phí 
TBCN để sản xuất ra hàng hoá, thấp hơn giá trị của hàng hoá ấy, tức là thấp hơn 
những chi phs sản xuất thực tế. Chỗ chênh lệch giã giá trị hay chi phí sản xuất thực 
tế và chi phí sản xuất TBCN, là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm không. Để 
hiểu rõ hơn quá trình này, ta nghiên cứu bài toán sau: 
Giả định để sản xuất 10kg bông, giá trị 10.000đ. Để biến số bông đó thành 
sợi, một công nhân phải làm việc trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2.000đ. Giá 
trị sức lao động trong một ngày của công nhân là 6.000đ, trong một giờ lao động 
công nhân tạo ra một giá trị là 1.000đ, cuối cùng ta giả định rằng: "Trong quá trình 
sản xuất toàn bộ bông biến thành sợi". Vậy nếu người công nhân làm việc trong 6 
giờ thì không tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên, sức lao động mà nhà tư bản phải 
trả khi mua và giá trị mà sức lao động có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng 
khác nhau mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao động trong ngày. Việc 
sử dụng sức lao động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản. Trên thực tế, nhà tư bản 
bắt công nhân làm việc hơn 6 giờ, giả sử là 12 giờ trong 1 ngày. 
Chi phí sản xuất TBCN Giá trị của sản phẩm mới (20 kg sợi) 
- Tiền mua bông là 2.000đ 
- Hao mòn máy móc 4.000đ 
- Tiền mua sức LĐ trong 1 ngày 
- Giá trị của bông được chuyển vào sợi 
- Giá trị máy móc được chuyển vào sợi 4.000đ 
- Giá trị LĐ của CN tạo ra trong 12 giờ LĐ: 
1 ngày 6.000đ 
30.000đ 
1.000đ x 12 = 12.000d 
36.000đ 
Như vậy, toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao 
động là 30.000đ. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm mới (20 kg 
sợi) có giá trị bằng 36.000đ, lớn hơn giá trị ứng trước của nhà tư bản. 
36.000đ - 30.000đ = 6.000đ. Vậy 30.000đ ứng trước chuyển hoá thành 
36.000đ, được một giá trị thặng dư là 6.000đ. Vậy tiền đã biến thành tư bản. Phần 
giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư. 
Thông qua việc nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trên, ta thấy 
rằng giá trị sản phẩm mới được sản xuất ra có 2 phần: 
+ Giá trị cũ: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người 
công nhân mà được bảo tồn và duy chuyển vào giá trị của sản phẩm mới 
(24.000đ). 
+ Giá trị mới: Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá 
trình lao động (6.000đ). 
Như vậy, giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do 
công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. 
Nhận xét về học thuyết giá trị thặng dư của C.Mac: Lênin đã từng đánh giá 
học thuyết giá trị thặng dư là "Hòn đá tảng" của toàn bộ học thuyết kinh tế của 
Mác, ở trong học thuyết giá trị thặng dư , Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột của nhà 
tư bản, đã chứng minh công thức của nhà và giá trị thặng dư là do công nhân sáng 
tạo ra bị nhà tư bản chiếm không. Nếu xét trên góc độ kinh tế, giá trị thuộc về nhà 
tư bản nhưng giá trị sử dụng lại thuộc về xã hội. Do đó, công nhân càng tạo ra 
nhiều giá trị thặng dư thì xã hội càng nhiều của cải. Nếu công nhân không tạo ra 
giá trị thặng dư người tư bản không được gì, sản phẩm xã hội không tăng lên, kinh 
tế không phát triển. Chính vì thế, giai cấp tư bản tim thấy lao động thặng dư là một 
phát minh vĩ đại để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế và chính lòng khao khat lao 
động thặng dư bằng mọi cách đã làm cho nền kinh tế phát triển nhảy vọt từ khi họ 
lên nắm địa vị thống trị. ở bề ngoài xã hội thì không có giá trị thặng dư mà chỉ có 
lợi nhuận thôi. 
2. Lợi nhuận. 
Giá trị của hàng hoá sản xuất tong xã hội TBCN, ba gồm ba bộ phận: 1- 
Giá trị của tư bản bất biến (c) (một phần giá trị máy móc, nhà xưởng, giá trị của 
nhiên liệu,...). 2- Giá trị khả biến(v). 3- Giá trị thặng dư (m): Lượng giá trị của 
hàng hoá là do số người lao động xã hội cần thiết đẻ sản xuất ra hàng hoá quyết 
định. Nhưng nhà tư bản không hao phí lao động vào sản xuất hàng hoá, mà chỉ bỏ 
tư bản vào đó thôi. 
 Chi phí tư bản chủ nghĩa đẻ sản xuất hàng hoá, gồm có những chi phí về đầu 
tư bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), tức là những chi phí về tư liệu sản xuất 
và tiền lương công nhân. Đối với nhà tư bản, hàng hoá đánh giá bao nhiêu là tính 
theo tư bản đã chi phí, đối với xã hội, hàng hoá đánh giá bao nhiêu là tính theo lao 
động đã hao phí. Bởi vậy những chi phí tư bản chủ nghĩa đẻ sản xuất hàng hoá, 
thấp hơn giá trị sản xuất thực tế (c+v+m). Chỗ chênh lệch giữa giá trị hay chi phí 
sản xuất thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giá trị thặng dư (m) mà 
nhà tư bản chiếm không. 
 Khi nhà tư bản hàng hoá do xí nghiệp của mình sản xuất ra, thì giá trị thặng 
dư biểu hiện bằng số thừa ngoài chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi xác định 
mức thu nhập của xí nghiệp, nhà tư bản so sánh số thừa đó với số tư bản ứng 
trước tức là tổng tư bản đã bỏ vào sản xuất. Giá trị thặng dư, khi so sánh với tổng 
tư bản, thì biểu hiện thành hình thức lợi nhuận. Vì giá trị thặng dư bị đem so sánh 
không phải với tư bản khả biến mà với toàn bộ tư bản cho nên chỗ khác nhau giữa 
tư bản bất biến dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và tư bản khả biến dùng vào 
mua sức lao đọng bị xoá mờ đi. Do đó mà sinh ra cái bề ngoài giả dối khiến cho 
người ta tưởng lầm rằng: lợi nhuận là do tư bản đẻ ra. Nhưng sự thật thì nguồn gốc 
của lợi nhuận là giá trị thặng dư, và giá trị thặng dư chỉ là do lao động của công 
nhân sáng tạo ra trong quá trình sử dụng lao động, mà giá trị của nó thể hiện ở tư 
bản khả biến. Lợi nhuận là giá trị thặng dư so sánh với số tư bản đã bỏ vào sản 
xuất; nhìn bề ngoài giá trị thặng dư có vẻ là kết quả của số tư bản ấy. Vì vậy Mác 
gọi lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Và như vậy, hình thức 
lợi nhuận đã che dấu quan hệ bóc lột bằng cách tạo ra quan niệm sai lầm rằng: lợi 
nhuận là do chính bản thân tư bản đẻ ra. Chính các hình thức quan hệ sản xuất tư 
bản chủ nghĩa đã lam lu mờ và che giấu thực chất bóc lột của nó. 
Nếu gọi lợi nhuận là p, thì công thức GT = c + v + m = k + m sẽ chuyển 
hoá thành GT = k + p hay giá trị hàng hoá = chi phí sản xuất + lợi nhuận vậy, lúc 
thoạt nhìn ta thấy rằng p và m cùng là một. Tuy nhiên giữa lợi nhuận và giá trị 
thặng dư không phải là hoàn toàn thống nhất mà giữa chúng cũng có sự khác nhau. 
Về mặt chất: giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ tư bản lưu 
động, là biểu hiện của lao động thặng dư; còn lợi nhuận được xem là toàn bộ tư 
bản ứng trước đề ra. Giá trị thặng dư là biểu hiện của quan hệ giai cấp; còn lợi 
nhuận biểu hiện mối quan hệ giữa vật với vật. 
Về mặt lượng: nếu hàng hoá bán đúng giá trị của nó thì người ta đã thực 
hiện được một lợi nhuận rồi. Lợi nhuận đó bằng giá trị thừa ra ngoài chi phí sản 
xuất hàng hoá, tức là bằng toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong giá trị của 
hàng hoá (m = p). Nhưng nhà tư bản có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó mà 
vẫn có lợi nhuận. Bởi vì chừng nào có giá bán của hàng hoá còn cao hơn chi phí 
sản xuất của nó, dù giá bán thấp hơn giá trị của nó thì bao giờ cũng vẫn thực hiện 
được một bộ phận giá trị thặng dư chứa đựng trong đó. Như vậy, lợi nhuận là một 
phạm trù trong lưu thông. Nhà tư bản thu được lợi nhuận nhiều hay ít phụ thuộc 
vào giá trị hàng hoá. Lợi nhuận xoay quanh giá trị thặng dư cũng như giá cả dao 
động quanh giá trị nhưng tổng giá trị thặng dư bằng tổng lợi nhuận cũng như tổng 
giá trị bằng tổng giá cả. 
Tóm lại, sự khác nhau giữa lợi nhuận giá trị thặng dư cũng giống như sự 
khác nhau giữa giá trị và giá trị trao đổi. Lợi nhuận là sự thể hiện, tức là "hình thái 
biến tướng" của giá trị thặng dư. Và cũng như khi nghiên cứu giá trị, thoạt tiên 
Mác gạt bỏ hình thái giá trị của nó, tức giá trị trao đổi. Chỉ sau khi lần mò vết tích 
của giá trị, Mác mới trở lại giá trị trao đổi. ở đây cũng thế, thoạt tiên Mác nghiên 
cứu giá trị thặng dư mà không đả động gì đến các hình thái của nó, Mác chỉ giải 
thích thực chất của giá trị thặng dư, xét xem nó được sản xuất như thế nào và ai 
sản xuất nó. Chỉ sau khi nghiên cứu như thế, Mác mới chuyển sang nghiên cứu 
hình thái của nó tức là nghiên cứu lợi nhuận. Nhưng lúc này phạm vi sản xuất sang 
một bên và chuyển sang phạm vi lưu thông, vì giá trị thặng dư chỉ chuyển hoá 
thành lợi nhuận trong lưu thông. Như vậy, Mác đã chỉ ra rằng: giá trị thặng dư 
biểu hiện thực chất của phương thức sản xuất TBCN. Còn lợi nhuận là một trong 
những "hình thái cụ thể" mà dưới hình thái đó tư bản hiện ra ở bề mặt của xã hội. 
3. Tỷ suất lợi nhuận: 
Đối với người chủ xí nghiệp thì mức lãi của xí nghiệp TBCN cao hay thấp 
là do tỷ suất lợi nhuận quyết định. Tỷ suất lợi nhuận là biểu hiện tỷ số giữa giá trị 
thặng dư và tổng tư bản (P' = m/k.100%). Ví dụ: nếu tư bản ứng trước là 20.000$, 
nếu lợi nhuận hàng năm là 40.000$ thì tỷ suất lợi nhuận là 40.000/20.000 x 100% 
= 20%, 
Sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận được hoàn thành ở sự 
chuyển hoá tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận. Sự chuyển hoá giá trị 
thặng dư thành lợi nhuận đã nằm trong việc chia giá trị của hàng hoá thành chi phí 
sản xuất kinh tế tăng thêm ngoaì chi phí sản xuất, nưhng sự chuyển hoá đó được 
biểu hiện một cách độc lập và đặc thù trong tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận 
biểu hiện tỷ số giữa số tăng thêm nói trên với tổng tư bản. Do đó, nó củng cố ấn 
tượng cho rằng lợi nhuận là "con đẻ" của TBCN. 
Dưới chế độ TBCN, mức độ bóc lột lao động của người khác mang hình 
thức tăng giá trị, biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, như vậy sẽ không tránh khỏi 
việc phải chuyển tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận bởi vì cả bản thân 
giá trị lẫn mức tăng giá trị đều chỉ có thể hiện trong lưu thông. Nhưng tỏng lưu 
thông còn có sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất biến, giá trị của hàng 
hoá chia ra thành chi phí sản xuất và số tăng thêm ngoài chi phí sản xuất. Do đó 
trong biểu thức về mức độ, bóc lột tỷ số giữa giá trị thặng dư với tư bản khả biến 
(m/v), đã chứa đựng sự chuyển hoá tỷ số ấy thành tỷ số giữa giá trị thặng dư với 
tổng tư bản (m/(c/v)) hay (m/không trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan 
tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm nhiều hơn đến tỷ suất lợi nhuận. Bởi vì tỷ suất 
lợi nhuận cho biết nhà tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi. Đối với nhà tư bản nếu P' = 
100% thì đầu tư khắp nơi, nếu P' = 200% thì sẽ bất chấp cả pháp luật và còn nếu P' 
= 300% thì treo cổ nhà tư bản vẫn cứ làm. 
Do đó, tỷ suất lợi nhuận không chỉ là mục tiêu theo đuổi mà còn là động lực 
chính, là yếu tố để cạnh tranh, là sự thèm khát vô hạn. Trên thực tế thì tỷ suất lợi 
nhuận cao hay thấp tuỳ thuộc vào nhiều nhana tố khách quan như tỷ suất giá trị 
thặng dư, tiết kiệm tư bản bất biến, cấu tạo hữu cơ, tốc độ chu chuyển,... Bởi thế, 
các nhà tư bản đầu tư vào Việt Nam đang tập trung vào những ngành có tỷ suất lợi 
nhuận cao, thu lợi nhuận nhanh như chủ nghĩa khai thác, du lịch. 
3. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. 
Trong cuộc đấu tranh giành chỗ đầu tư có lợi nhất, các nhà tư bảnh cạnh 
tranh với nhau kịch liệt. Họ muốn đầu tư vào những ngành sản xuất có triển vọng 
thu được nhiều lợi nhuận hơn trong khi theo đuổi lợi nhuận cao, tư bản chuyển từ 
ngành này sang ngành khác, kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân 
và tiến hành phân phối lao động và tư bản sản xuất giữa các ngành sản xuất 
TBCN. 
Giả sử trong xã hội có ba ngành: Ngành da, ngành dệt và ngành chế tạo 
máy móc, với số tư bản bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ thì khác nhau. Tư bản 
ứng trước trong mỗi ngành ấy là 100 đơn vị (thí dụ là 100 triệu đồng đô la). Tư 
bản của ngành da gồm 70 đơn vị là tư bản bất biến và 30 đơn vị là tư bản khả biến; 
tư bản của ngành dệt gồm có 80 đơn vị là tư bản bất biến và 20 đơn vị là tư bản 
khả biến; và tư bản của ngành chế tạo máy móc gồm có 90 đơn vị là tư bản bất 
biến và 10 đơn vị là tư bản khả biến. Giả sử tỷ suất giá trị thặng dư trong cả ba 
ngành đều như nhau: 100%. Như thế thì giá trị thặng dư tạo ra trong ngành da sẽ là 
30 đơn vị, trong ngành dệt là 20 và tỏng ngành chế tạo máy móc là 10. Giá trị của 
hàng hoá trong ngành thứ nhất sẽ là 130, trong ngành thứ hai là 120, trong ngành 
thứ ba là 110, và trong toàn bộ cả ba ngành là 360 đơn vị. 
Nếu hàng hoá bán ra theo giá trị của nó, thì tỷ suất lợi nhuận trong ngành da 
sẽ là 30% ((30/100).100), trong ngành dệt là 20% ((20/100).100), trong ngành chế 
tạo máy móc là 10% ((10/100)/100). Phân phối lợi nhuận như thế thì sẽ rất có lợi 
đối với các nhà tư bản thuộc ngành da, nhưng không có lợi đối với các nhà tư bản 
thuộc ngành chế tạo máy móc. Khi ấy thì các chủ xí nghiệp ngành chế tạo máy 
móc sẽ đi tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Và họ sẽ thấy ngành da là nơi có lợi hơn cả. 
Thế là họ chuyển tư bản ở ngành chế tạo máy móc sang ngành da. Kết quả là số 
lượng hàng hoá sản xuất ra trong ngành da sẽ tăng lên, sự cạnh tranh tất nhiên sẽ 
sâu sắc thêm và sẽ bắt buộc các chủ xí nghiệp của ngành này phải giảm giá hàng 
hoá của họ xuống, điều đ