Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy
mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế rộng, tính chất phức tạp và trình độ phát
triển ngày càng cao. Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội
(KT-XH) phổ biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hoà bình và hợp tác
giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế
hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội.
Trong thời gian qua, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) đã và
đang thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), bước đầu đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, ngành du lịch CHDCND Lào
mới bắt đầu hội nhập và hợp tác, đang trong quá trình tìm hiểu cơ chế và luật lệ quốc tế,
nên khả năng chủ động đưa ra các dự án hợp tác còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, những
yếu tố như dịch vụ chưa đa dạng, cơ sở hạ tầng chưa theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng
dịch vụ thấp, giá cả cao, sản phẩm chưa phong phú… là những thách thức lớn đối với
ngành du lịch nói chung và đối với các doanh nghiệp du lịch nói riêng. Thực tế này dẫn tới
năng lực cạnh tranh của ngành và các sản phẩm du lịch thấp. Trong những năm tới, xu
hướng cạnh tranh ngành sản phẩm du lịch sẽ ngày càng gay gắt, đã và đang đặt ra những
thách thức ngày càng lớn đối với du lịch của CHDCND Lào nói chung, du lịch Bo Kẹo nói
riêng.
104 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2022 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo
Kẹo Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy
mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế rộng, tính chất phức tạp và trình độ phát
triển ngày càng cao. Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội
(KT-XH) phổ biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hoà bình và hợp tác
giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế
hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội.
Trong thời gian qua, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) đã và
đang thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), bước đầu đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, ngành du lịch CHDCND Lào
mới bắt đầu hội nhập và hợp tác, đang trong quá trình tìm hiểu cơ chế và luật lệ quốc tế,
nên khả năng chủ động đưa ra các dự án hợp tác còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, những
yếu tố như dịch vụ chưa đa dạng, cơ sở hạ tầng chưa theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng
dịch vụ thấp, giá cả cao, sản phẩm chưa phong phú… là những thách thức lớn đối với
ngành du lịch nói chung và đối với các doanh nghiệp du lịch nói riêng. Thực tế này dẫn tới
năng lực cạnh tranh của ngành và các sản phẩm du lịch thấp. Trong những năm tới, xu
hướng cạnh tranh ngành sản phẩm du lịch sẽ ngày càng gay gắt, đã và đang đặt ra những
thách thức ngày càng lớn đối với du lịch của CHDCND Lào nói chung, du lịch Bo Kẹo nói
riêng.
Hiện tại nguồn khách quốc tế do các công ty lữ hành quốc tế lớn chi phối bởi họ có
năng lực cạnh tranh mạnh, có khả năng khai thác thị trường trên toàn cầu. Những công ty
này sẽ tạo ra sức ép rất lớn đối với các công ty lữ hành trong nước, do đó nếu không có
những biện pháp kịp thời, ngành du lịch của CHDCND Lào nói chung và du lịch tỉnh Bo
Kẹo nói riêng sẽ mất đi những cơ hội phát triển.
Tỉnh Bo Kẹo có vị trí nằm trong khu vực "Tam giác vàng", là một tỉnh có địa hình cả
đồng bằng và miền núi, có vị trí thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, thương mại và du lịch,
trên cơ sở liên kết giữa các tỉnh miền núi phía Tây Bắc Lào với Trung Quốc, Thái Lan và
Myanma. Tỉnh Bo Kẹo không chỉ là một trung tâm buôn bán, mà còn là tỉnh có nhiều tiềm
năng để khai thác và phát triển du lịch biên giới như: Có nhiều điều kiện thiên nhiên rất phong
phú, nhiều danh lam thắng cảnh, có truyền thống văn hoá các dân tộc, do vậy, nếu khai thác
tốt các lợi thế đó, đáp ứng được nhu cầu du khách trong nước và phát triển du lịch quốc tế thì
du lịch sẽ trở thành một ngành kinh tế chủ yếu.
Như vậy, phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo không chỉ xuất phát từ thực tiễn, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội trên địa bàn mà còn là yêu cầu mang tính chiến lược
lâu dài nhằm phát triển ngành du lịch ở CHDCND Lào trong giai đoạn tiếp theo. Với lý do
đó, tôi chọn đề tài “Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào” làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước CHDCND Lào đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch kể cả đề tài
quốc gia như: Chương trình du lịch Cánh Đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng, du lịch Vắt
Phu, tỉnh Chăm Pa Sắc (Chùa trên đồi), du lịch Năm Tốc Tạt, Khon Pha Phêng (Thac
Khon). Công trình nghiên cứu tiêu biểu của tác giả Lào là Hụm Phăn Khưa Pa Sít (2008),
Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Luang Pha Bang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, HVCTHCQG HCM. Luận văn đã nêu tình hình phát triển du lịch trong thời
gian qua và chiến lược phát triển trong tương lai.
Các công trình nghiên cứu của tác giả Việt Nam khá đồ sộ, trong đó phải kể đến
một số công trình tiêu biểu sau: Luận án của Nguyễn Đức Lợi: Những điều kiện và giải
pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn, luận án tiến sỹ,
Hà Nội 1996. Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn đưa du lịch thành ngành kinh
tế mũi nhọn, tiềm năng và thực trạng ngành du lịch Việt Nam, tác giả luận án đã nêu định
hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
Bùi Thuý Hạnh với luận án Đánh giá và khai thác điều kiện tự nhiên và tài nguyên
Ba Vì phục vụ mục đích du lịch, luận án tiến sỹ, Hà Nội 1996. Nội dung luận án này tập
trung khai thác các điều kiện tự nhiên sẵn có ở khu vực Ba Vì (Hà Tây cũ) để phát triển du
lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái và du lịch khám phá.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hạnh: Những đặc điểm tài nguyên du lịch Thủ
đô Hà Nội phục vụ khai thác hoạt động kinh doanh du lịch, Hà Nội 1997. Luận án đã làm
rõ những vấn đề lý luận chung về tài nguyên du lịch, đánh giá thực trạng những đặc điểm
tài nguyên du lịch của Thủ đô Hà Nội và khai thác tài nguyên du lịch phục vụ kinh doanh
du lịch, đế xuất các giải pháp để khai thác tài nguyên du lịch phục vụ kinh doanh du lịch
một cách có hiệu quả.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lài (2008) Khai thác tiềm năng du lịch để
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Bình, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội lại tập trung nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm khai thác tiềm
năng, điều kiện tự nhiên, văn hoá, lịch sử... ở tỉnh Quảng Bình mà theo tác giả, đến nay
chưa khai thác hết. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Cường (2008) với tiêu đề
Du lịch Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội lại nhìn nhận sự phát triển du lịch địa phương trong bối cảnh tăng
cường giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo đó, nhu
cầu du lịch ngày càng tăng và chính quyền địa phương cần thực hiện nhiều giải pháp nhằm
khai thác có hiệu quả xu thế này. Luận văn thạc sĩ của Thái Viết Tường (2006): Du lịch
văn hoá ở tỉnh Quảng Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội lại tập trung khai thác mảng văn hoá – thế mạnh của tỉnh Quảng Bình với các di tích
Mỹ Sơn, Hội An, Phong Nha – Kẻ Bàng và bề dày truyền thống văn hoá của mỗi địa
phương trên địa bàn tỉnh. Luận văn thạc sĩ của Trần Mạnh Chí (2007) với chủ đề Giải
pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội, Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội tập trung nghiên cứu, định hướng và tìm kiếm
giải pháp nhằm phát triển ngành này theo hướng mở rộng các sản phẩm du lịch, tăng đầu
tư kết cấu hạ tầng du lịch... từng bước mở rộng quy mô, lĩnh vực và đóng góp của du lịch
vào sự phát triển chung của Thủ đô. Luận văn tốt nghiệp hệ Cao cấp lý luận của tác giả Lê
Mai Khanh (2005) với đề tài Phát triển du lịch Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội lại có góc nhìn khá tổng quan về toàn ngành du lịch Việt Nam, nghiên cứu
kinh nghiệm quốc tế, khái quát những thành tựu, hạn chế của du lịch Việt Nam thời gian
qua, đánh giá khái quát tiềm năng và triển vọng trong thời gian tới, từ đó đề xuất hệ thống
các giải pháp phù hợp. Luận văn của Nguyễn Quốc Tuấn (2008), Quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã khái quát tình hình
hoạt động du lịch tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay, phương hướng và giải pháp hoàn
thiện quản lý nhà nước trong hoạt động du lịch trong thời gian tới. Tác giả Trần Ngọc Tư
(2000), Phát triển du lịch ở tỉnh Vĩnh Phúc Tiềm năng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ khoa
học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn này đã đề cập đến phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), Kinh tế du lịch ở
tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp phát triển, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh....
Riêng về du lịch tỉnh Bo Kẹo, hiện đã có một số bài viết đề cập đến phát triển du
lịch, nhưng chưa phân tích toàn diện và làm rõ tiềm năng cũng như mặt tồn tại của chúng
trong giai đoạn hiện nay. Hiện tại, phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo chưa có công
trình nghiên cứu nào dưới dạng luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đề cập đến dưới góc độ
quản lý kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch;
thông qua việc nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển du lịch trong thời gian qua tại
tỉnh Bo Kẹo, rút ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân, qua đó, đề xuất
phương hướng và hệ thống giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung
giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích về mặt lý luận khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của du lịch và phát
triển du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội ở Lào nói
chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
- Rút ra những bài học đối với tỉnh Bo Kẹo qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du
lịch của một số tỉnh của Việt Nam và một số tỉnh của Lào.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch ở tỉnh Bo Kẹo trong thời gian qua.
Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo đến
năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn xác định phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh
Bo Kẹo. Phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo, đặt mối quan hệ với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh và phát triển trên phạm vi vùng, quốc gia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài giới hạn không gian nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo.
Về thời gian: Nghiên cứu phát triển du lịch chủ yếu từ năm 2002 - 2008 và phương
hướng, giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Cụ thể, đề tài cũng sử dụng các phương pháp như: Phân tích- tổng hợp, thống kê,
so sánh....
Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học đã được công bố.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Khẳng định phát triển du lịch là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Bo Kẹo.
- Chỉ rõ những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của phát triển du lịch tỉnh
Bo Kẹo thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo trong thời gian tới.
- Làm tài liệu tham khảo, là cơ sở góp phần xây dựng các quy hoạch phát triển du lịch,
các chủ trương biện pháp phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3
chương, 9 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm về du lịch
Thuật ngữ "Du lịch" trong tiếp Pháp là "Le Tour" – được hiểu là đi một vòng và
quay về điểm xuất phát ban đầu. Theo nghĩa đen, thuật ngữ này chưa bao hàm được tính
đa dạng, phong phú của các hình thức du lịch cũng như chưa phản ánh đầy đủ các biểu
hiện khác nhau của hoạt động du lịch. Theo tiếng Hy lạp, thuật ngữ này là "tornos" – cũng
có nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ "du lịch" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán
với sự ghép nối giữa "du – đi chơi, tham quan" và "lịch – ngắm nhìn, xem xét". Hai tác giả
người Thuỵ Sỹ là Hunziker và Krapf đã xây dựng nền móng cho lý thuyết về du lịch với
định nghĩa: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các
cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương - những người không có
mục đích định cư và không liên quan đến bất cứ hoạt động kiếm tiền nào. Định nghĩa này
đã khái quát một cách chung nhất hoạt động du lịch, cụ thể là hoạt động đi du lịch của các
chủ thể tham gia. Mặc dù chưa bao quát hết những đặc trưng và các loại hình du lịch
nhưng định nghĩa này đặt cơ sở quan trọng cho các nghiên cứu cơ bản tiếp theo.
Theo Liên Hiệp quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of official
Travel oragnization: IUOTO). Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa
điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, một nghề hay một
việc kiếm tiền sinh sống [6, tr.1].
Tại Hội nghị Liên Hiệp quốc về du lịch họp tại Roma - Italia (21/8 - 5/9/1963) các
chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ các hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập
thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi
họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ [6, tr.1].
Quốc hội CHDCND Lào số 10/¦², ngày 9/11/2005, điều 2 nêu: Du lịch là du hành từ
nơi sinh sống của mình đi đến nơi khác hay nước khác để thăm viếng, tham quan, nghỉ ngơi,
vui chơi, sự trao đổi văn hoá, thể thao, y tế, nghiên cứu giáo dục [31, tr.1].
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội đồng
Lữ hành và du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council - WTTC) đã công bố: Du
lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử
và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất
trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là một trong ba ngành kinh tế hàng
đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên
thế giới. Du lịch này là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu.
Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của
cuộc sống [6, tr.5].
Du lịch có hai nghĩa: Thứ nhất: du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con
người ở một nơi khác, tức là cách xa nơi ở thường xuyên để nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thoả mãn
các nhu cầu về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, trao đổi công việc. Thứ hai: du lịch được hiểu là tập
hợp các hoạt động kinh doanh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, thực hiện tốt mọi nhu cầu của khách du lịch.
Nói cách khác, du lịch là tập hợp các hoạt động giữa cung du lịch và cầu du lịch tạo nên ngành du
lịch.
Như vậy, du lịch được nhìn nhận từ rất nhiều góc nhìn khác nhau và do đó, có nhiều
định nghĩa, khái niệm, quan niệm khác nhau và rất khó có thể đưa ra một định nghĩa bao
quát. Trong phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế, tác giả
cho rằng Du lịch là một hoạt động tương tác giữa con người với tự nhiên ngoài môi trường
sinh sống định cư, nhằm mục đích tham quan, tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm. Có thể
định nghĩa một cách ngắn gọn: Du lịch là hình thức nghỉ ngơi năng động ngoài môi trường
định cư.
- Khái niệm hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức cá nhân kinh doanh du
lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Trong đó, chủ
thể quan trọng của hoạt động du lịch là khách du lịch. Đó là người đi du lịch hoặc kết hợp
đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Hoạt động du lịch là một tồn tại khách quan của con người nằm trong nội tại của sự phát
triển xã hội loài người. Hoạt động thông qua du lịch, nhu cầu giao lưu và hưởng thụ vật
chất, tinh thần của con người phát triển cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, vùng, địa phương. Do vậy, hoạt động du lịch luôn được đặt ra và phát triển theo nhu
cầu của con người [4, tr.5].
Có thể nói, bản chất du lịch và hoạt động du lịch là du ngoạn của con người để được
hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang tính văn hoá cao, đặc sắc, độc đáo,
khác lạ với quê hương đất nước họ, bao gồm hệ thống di tích lịch sử - văn hoá - phong tục
tập quán, cảnh quan thiên nhiên, văn hoá - nghệ thuật, món ăn - thức uống dân tộc, cơ sở
nghỉ dưỡng - chữa bệnh, cơ sở thể thao giải trí...Trong đó quan trọng nhất là di tích lịch sử
- văn hoá, danh lam thắng cảnh thiên nhiên và bản sắc văn hoá dân tộc.
- Khái niệm kinh doanh du lịch
Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức sản xuất, lưu thông - mua, bán hàng hoá du lịch
trên thị trường nhằm đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội.
“Kinh doanh du lịch và các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ một
cách hợp pháp theo nhu cầu thị trường nhằm đạt được lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội
tối đa” [7, tr.277].
Nói chung kinh doanh du lịch có khả năng thu lợi nhuận cao và thu hồi vốn đầu
tư nhanh hơn so với các lĩnh vực kinh tế khác. Đó là một ưu thế của ngành kinh doanh
du lịch mà nếu được chính quyền của quốc gia đó quan tâm đầu tư khai thác tốt sẽ góp
phần tăng nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Hiện nay ở nhiều quốc gia có sự
phát triển về công nghiệp, thu nhập từ kinh doanh du lịch thường chiếm 20% hoặc cao
hơn trong tổng sản phẩm quốc nội GDP. Hoạt động kinh doanh du lịch còn tác động
mạnh đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như: Giao thông vận tải, hàng không, bưu
chính viễn thông, các nghề thủ công, mở rộng thị trường, giải quyết việc làm cho nhân
dân tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển tốt lên.
Kinh doanh du lịch theo điều 63 Luật Du lịch CHDCND Lào gồm các hoạt động
sau:
- Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch.
- Kinh doanh lữ hành nội địa và quốc tế.
- Kinh doanh dịch vụ ăn uống.
- Kinh doanh các dịch vụ bổ sung.
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
Hoạt động kinh doanh du lịch tác động mạnh mẽ đến cán cân thu chi của vùng du
lịch, của một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở
khu vực du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước.
- Kinh tế du lịch
Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách quốc tế. Góp phần nâng cao dân trí,
tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội [2, tr.10].
Dựa vào khái niệm trên có thể hiểu du lịch là ngành kinh tế có tính tổng hợp, lấy
khách du lịch làm đối tượng, cung cấp sản phẩm, du lịch cần thiết cho khách du lịch, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch của họ.
Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, đây không phải là một sự ngẫu nhiên,
mà do Chính phủ một số nước đã quan tâm phát triển du lịch theo hướng phát ngành kinh tế
mũi nhọn. Do đó, ngành du lịch phát triển rất năng động trong việc kế hoạch hoá đầu tư thành
ngành du lịch quốc gia liên kết chặt chẽ với ngành thương mại du lịch của các nước trên thế
giới.
1.1.2. Đặc điểm của du lịch
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự tiến bộ về văn minh, vật chất, văn minh tinh
thần của loài người, du lịch nghỉ phép, nghỉ ngơi mang tính vui chơi, giải trí dần dần trở
thành thói quen của du lịch hiện nay. Đồng thời các hình thức du lịch với mục đích khác đó
là hoạt động du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu đặc biệt của mọi người như du lịch văn hoá, du
lịch thăm viếng di tích, du lịch điều dưỡng, du lịch thám hiểm, du lịch khảo sát… ngày càng
đa dạng, nội dung của hoạt động phát triển du lịch ngày càng phong phú. [21, tr.46].
- Du lịch vừa là kinh tế, văn hoá tinh thần
Có thể nói, cho đến nay du lịch là ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao cho mỗi quốc
gia (ngành công nghiệp không k