M ục tiêu mà tất cả các quốc gia đều mong muốn vươn tới đó là sự phát triển và thịnh
vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi nước đều phải tự xây dựng các chính
sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, khắc phục được khó khăn và
yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu xa đối với xu thế chung.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường theo
hướng mở, nằm trong khu vực kinh tế Châu á Thái Bình Dương - vòng cung kinh tế
đang phát triển năng động nhất thế giới, lại vấp phải nhiều khó khăn thử thách: nền
công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu
vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số
lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội .
Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước thì một trong những tiền đề nhằm phát triển kinh tế là vốn bởi sẽ là không
tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hay không đủ vốn.
Thực tế, không quá khó khăn khi nhận thức rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế nhưng sẽ là khó khăn khi đi tìm kiếm nó. Câu hỏi đặt ra là:
vốn được khơi nguồn từ đâu?
Nội lực rất nhiều nhưng có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu
hút được ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ
thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu
về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung
gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả
nhất vì trong thế giới kinh doanh tiền tệ, NHTM được coi là trung gian tài chính lớn
nhất, quan trọng nhất.
Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế
đất nước, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội - chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam, rất quan tâm đến công tác huy động vốn, với phương châm kinh doanh nguồn vốn
huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh. Em xin chọn đề tài: “Tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”.
Với lượng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có,
nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai làm thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp của thầy để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I : Hoạt động huy dộng vốn của NHTM.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội.
Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo &
PTNT Hà Nội
94 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2217 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tăng cường huy động vốn tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Hà Nội
Lời nói đầu
M ục tiêu mà tất cả các quốc gia đều mong muốn vươn tới đó là sự phát triển và thịnh
vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi nước đều phải tự xây dựng các chính
sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, khắc phục được khó khăn và
yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu xa đối với xu thế chung.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường theo
hướng mở, nằm trong khu vực kinh tế Châu á Thái Bình Dương - vòng cung kinh tế
đang phát triển năng động nhất thế giới, lại vấp phải nhiều khó khăn thử thách: nền
công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu
vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số
lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội .
Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước thì một trong những tiền đề nhằm phát triển kinh tế là vốn bởi sẽ là không
tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hay không đủ vốn.
Thực tế, không quá khó khăn khi nhận thức rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế nhưng sẽ là khó khăn khi đi tìm kiếm nó. Câu hỏi đặt ra là:
vốn được khơi nguồn từ đâu?
Nội lực rất nhiều nhưng có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu
hút được ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ
thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu
về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung
gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả
nhất vì trong thế giới kinh doanh tiền tệ, NHTM được coi là trung gian tài chính lớn
nhất, quan trọng nhất.
Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế
đất nước, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội - chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam, rất quan tâm đến công tác huy động vốn, với phương châm kinh doanh nguồn vốn
huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh. Em xin chọn đề tài: “Tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”.
Với lượng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có,
nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai làm thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp của thầy để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I : Hoạt động huy dộng vốn của NHTM.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội.
Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo &
PTNT Hà Nội
Chương i:
hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại
1.1. hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái quát về NHTM
Tính cho đến thời điểm hiện nay, ngân hàng thương mại đã có một tuổi đời hoạt
động tương đối dài, tuy nhiên bất cứ khi nào đề cập tới NHTM ta không thể bỏ qua lịch
sử ra đời của nó. NHTM là một trung gian tài chính ra đời dựa trên cơ sở của sự phát
triển sản xuất và trao đổi hàng hoá và dựa trên sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng các
khu vực.
Hình thức ngân hàng sơ khai, đầu tiên là nhận tiền gửi và cho vay một phần số
tiền đó. Hình thức này xuất hiện là do một số người có nhu cầu cất trữ số tiền của mình,
trước nhu cầu đó một số thương gia đã đứng ra làm nhiệm vụ trông coi, cất giữ hộ tiền
và tiến hành thu phí giữ hộ tiền. Trong quá trình cất giữ hộ, các thương gia đã nhận thấy
trong kho cất giữ tiền của mình luôn tồn tại một lượng tiền dư thừa, vì thực tế không
bao giờ người gửi tiền lại rút hết tiền và rút tiền cùng một lúc, thường có rất nhiều đến
gửi tiền và rút tiền. Trong khi đó, có rất nhiều người có nhu cầu vay vốn để tiến hành
hoạt động kinh doanh. Vì vậy các thương gia đã bắt đầu sử dụng một phần tiền thừa
trong két ra để đem đầu tư và thu lãi, từ đó họ có thêm một phần lợi nhuận.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều hình thức ngân hàng
khác nhau, song đến nay ngân hàng đã trở thành một tổ chức kinh doanh tiền tệ chuyên
nghiệp mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu vẫn là nhận tiền gửi của khách với cam
kết hoàn trả lại đúng số tiền đó cộng thêm một phần lãi và sử dụng số tiền đó để cho
vay, đầu tư và thực hiện một số nghiệp vụ khác.
Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong
kinh tế thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Với vai trò như trên, ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia
nào. Vì vậy, mỗi nước đều xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động
cuả ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng
khác nhau. Thông thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt
động của nó trên thị trường tài chính.
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ngân hàng là những xí nghiệp
hay cơ sở hành nghề thường xuên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình
thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng
hay dịch vụ tài chính”.
Luật ngân hàng của ấn Độ, năm 1959 bổ sung “ngân hàng là cơ sở nhận các
khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 “ Những nhà băng thiết yếu gồm các
nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị
địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân...”.
Các cách định nghĩa trên chỉ khác nhau về mặt thể hiện, song phân tích khai thác
nội dung đều có một điểm chung là tính chất nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn
và có kỳ hạn, để sử dụng cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Đối với bản thân Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật được bảo
hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau
hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hoá phát
triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và
các tổ chức tín dụng.
Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định nghĩa:
“NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận
tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực
hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH10) điều 20: “ NHTM là loại hình
tổ chức tín dụng được thưc hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
Thông thường, các nước có thể sử dụng các loại mô hình NHTM như sau: mô
hình truyền thống và mô hình hiện đại.
Mô hình truyền thống: gồm có các ngân hàng đa năng và các ngân hàng
chuyên doanh.
Mô hình phổ biến hiện nay (mô hình hiện đại): gồm có các ngân hàng
thương mại - các định chế tài chính lớn, các ngân hàng phát triển, các ngân hàng
có quy chế chuyên môn hoá, các ngân hàng có quy chế đặc biệt.
Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng, mỗi loại ngân hàng đều mang những
nét đặc trưng phù hợp với điều kiện cuả thời kỳ đầu chuyển đổi của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Cụ thể Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau:
NHTM quốc doanh: Loại ngân hàng này được coi là chiếm vị thế trong hệ thống
tổ chức tín dụng của nước ta. Hình thức sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước, thành lập,
cấp vốn chịu sự quản lý cuả Nhà nước, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn, đối với mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất lưu thông, xây
dựng trong và ngoài nước. Hiện nay có 6 ngân hàng quốc doanh là: Ngân hàng công
thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu tư và phát
triển, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
NHTM cổ phần: là loại hình ngân hàng phải được thành lập theo luật công ty cổ
phần, thuộc sở hữu của các cổ đông, người góp vốn, trên cơ sở tự nguyện của các cổ
đông trong việc góp vốn và hoạt động theo luật pháp quy định.
Ngân hàng liên doanh: là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp
đồng liên doanh, vốn điều lệ là vốn góp của ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước
ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Chi nhánh ngân hàng liên doanh: là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài
hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều tiết của luật pháp Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư: là những ngân hàng tập trung huy động vốn trung, dài hạn
và đầu tư trung dài hạn vì sự phát triển, hoạt động đầu tư chủ yếu thông qua các dự án.
Ngân hàng chính sách: thông thường là những NHTM 100% vốn Nhà nước
hoặc NHTM cổ phần (sở hữu Nhà nước và các tổ chức kinh tế quốc doanh) được thành
lập để phục vụ một hoặc một số chính sách của Nhà nước, nó hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận, chênh lệch giữa chi phí huy động vốn và sử dụng vốn sẽ được Nhà nước
bù đắp.
Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các
thành viên tự nguyện thành lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu
tương trợ lẫn nhau về vốn và các dịch vụ ngân hàng. Nguyên tắc thành lập và hoạt động
của loại hình này là tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự trang trải mọi chi phí và tự chịu
trách nhiệm.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ của mình nhằm
điều hoà, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ phát triển của
khoa học hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày càng trở nên phong phú
hơn song ngân hàng vẫn luôn duy trì 3 mảng nghiệp vụ cơ bản sau:
a. Nghiệp vụ huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một ngân hàng. Vốn được
ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi đảm bảo một
tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn vốn của NHTM gồm
vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp
vụ huy động vốn sau:
Vốn tự có của ngân hàng: là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các NHTM.
Thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả động kinh doanh của bản thân
NHTM, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh cuả các NHTM.
Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để
thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản qua đó NHTM có thể huy động được.
Ngoài ra các ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ
gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ
chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân hàng trung ương (NHTW) dưới các
hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn
của bản thân NHTM khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Ngân hàng sử dụng nghiệp vụ này để
thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra,
nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh
doanh của mình.
Nghiệp vụ huy động vốn khác: Thông qua nghiệp vụ này NHTM có thể tạo
vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức cá nhân
trong và ngoài nước.
b. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian “đi vay để cho vay”. Do vậy mối
quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao
sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên
cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn
chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay.
Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế
hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân
hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức
bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
Theo mục đích việc cho vay bao gồm: cho vay bất động sản, cho vay thương
mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua và khác.
Theo kỳ hạn: ngân hàng cung cấp các loại cho vay ngắn hạn (loại cho vay này
nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán tạm thời, tiêu dùng và đầu tư ngắn hạn, thời hạn dưới
1 năm); cho vay trung và dài hạn (loại cho vay này phục vụ mục tiêu đầu tư trung và dài
hạn của khách hàng, thời hạn thường trên 1 năm).
Theo hình thức bảo đảm, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp; tài sản
cầm cố; được sự bảo lãnh của của người thứ ba.
Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín
của bản thân khách hàng.
Theo phương pháp hoàn trả, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:
Cho vay trả góp (khách hàng phải trả vốn gốc và lãi theo định kỳ).
Cho vay phi trả góp (khách hàng thanh toán một lần theo kỳ hạn
đã thoả thuận).
Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng vay có thể hoàn trả bất cứ lúc nào
khi có thu nhập).
Hai là tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu
khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ dịch vụ, đòi hỏi
Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ
kịp thời nguồn vốn cho nền
kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có
2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thương mại có thể
tiến hành là:
Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty khác.
Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần
quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một nghề
kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự
“an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn
phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng
thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
c. Nghiệp vụ khác.
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều các lợi thế. Một trong những lợi
thế đó là hình thức ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành các hoạt động thanh
toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến
đối tượng đó. Cụ thể:
Dịch vụ thanh toán hộ: trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao
dịch tại ngân hàng, ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về
các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng các hình
thức trên.
Dịch vụ môi giới, mua, bán chứng cho khách hàng và làm đại lý phát hành
chứng khoán cho công ty.
Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ uỷ thác, bảo quản hộ các chứng từ có
giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung
gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại
và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp
vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy
động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng
tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu
nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện
cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản xuất và
lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các
NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng
trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự
đóng góp này thể hiện như sau:
Thứ nhất ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và
Nhà nước trong nền kinh tế. Theo sự suy luận này, muốn có nhiều vốn phải tăng thu
nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc
mở rộng quy mô về cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá,
song khi đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Ngân hàng huy
động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế
(vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân
cư...) thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín dụng, ngân hàng thương mại đã cung cấp
vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất, góp phần nâng
cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp
ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại.
Thứ hai, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường .
Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong quá trình vận
động chịu tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung,
cầu, cạnh tranh. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế này cũng không thoát
khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan đó. Họ không những
phải đáp ứng nhu cầu thị trường về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng
loại mà còn đòi hỏi phải thoả mãn trên phương diện thời gian, địa điểm. Do vậy, nâng
cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến máy móc
trang thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một
cách thích hợp chính là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất
các yêu cầu của thị trường. Vì những hoạt động này đòi hỏi khối lượng vốn lớn (thông
thường vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này,
doanh nghiệp có thể tìm đến với ngân hàng xin vay vốn. Hoạt động tín dụng đã khiến
ngân hàng trở thành chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo chỗ đứng vững
chắc trong cạnh tranh của ngân hàng.
Thứ ba, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu
quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các
NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong