Abstract: Pedagogical psychology has confirmed, the psychological development of people must
go through many stages. Those stages are closely linked to the development of human activities.
For preschoolers, play is the key activity. For primary school students, learning is a key activity.
When children move from one age to another, there are always new psychological constructs that
have never appeared in the previous period. These new structures alter the child's cognitive
development process, which causes difficulties in cognitive activities, especially in learning Math.
Therefore, there should be pedagogical effects on cognitive activities for elementary school
students to help them overcome the psychological difficulties they may face. The article provides
some measures to support awareness for students at the beginning of primary school level in
teaching Maths.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 120 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp hỗ trợ hoạt động nhận thức cho học sinh đầu cấp tiểu học trong dạy học Toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 467 (Kì 1 - 12/2019), tr 47-51
47
Email: haihn.spdn@yahoo.com
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
CHO HỌC SINH ĐẦU CẤP TIỂU HỌC TRONG DẠY HỌC TOÁN
Hoàng Nam Hải, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Ngày nhận bài: 16/10/2019; ngày chỉnh sửa: 30/10/2019; ngày duyệt đăng: 08/11/2019.
Abstract: Pedagogical psychology has confirmed, the psychological development of people must
go through many stages. Those stages are closely linked to the development of human activities.
For preschoolers, play is the key activity. For primary school students, learning is a key activity.
When children move from one age to another, there are always new psychological constructs that
have never appeared in the previous period. These new structures alter the child's cognitive
development process, which causes difficulties in cognitive activities, especially in learning Math.
Therefore, there should be pedagogical effects on cognitive activities for elementary school
students to help them overcome the psychological difficulties they may face. The article provides
some measures to support awareness for students at the beginning of primary school level in
teaching Maths.
Keywords: Awareness, student, at the beginning of primary school level.
1. Mở đầu
Học sinh (HS) đầu cấp tiểu học được hiểu là HS ở
giai đoạn đầu của lớp 1. Như chúng ta đã biết, sự phát
triển tâm lí của con người trải qua nhiều giai đoạn (gọi là
những giai đoạn lứa tuổi). Việc xác định chính xác các
giai đoạn phát triển tâm lí, tìm ra quy luật đặc thù của sự
phát triển tâm lí trong từng giai đoạn, cũng như quy luật
và cơ chế chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang lứa tuổi
khác có ý nghĩa rất lớn về mặt lí luận và thực tiễn. Ở mỗi
lứa tuổi, sự phát triển tâm lí diễn ra theo các quy luật đặc
thù. L.X.Vygotsky đã căn cứ vào những thời điểm mà sự
phát triển tâm lí có những đột biến để xác định thời kì
phát triển tâm lí [1]. A.N.Lêonchiev chỉ ra rằng sự phát
triển tâm lí gắn liền với sự phát triển hoạt động của con
người trong thực tiễn, có một số hoạt động đóng vai trò
chính (chủ đạo) trong sự phát triển, một số hoạt động
khác giữ vai trò phụ. Sự phát triển tâm lí của con người
phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chủ đạo. Các nhà tâm
lí đã nêu rõ: - Hoạt động chủ đạo ở tuổi sơ sinh (từ 0-1
tuổi) là hoạt động giao tiếp cảm xúc trực tiếp với người
lớn, trước hết là với cha mẹ; - Hoạt động vui chơi là hoạt
động chủ đạo ở lứa tuổi mẫu giáo (từ 3-6 tuổi); - Hoạt
động học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi HS; - Hoạt
động lao động và hoạt động xã hội là hoạt động chủ đạo
ở lứa tuổi thanh niên và người trưởng thành [2].
Mặt khác, tâm lí học nhận thức cho rằng: nhận thức
là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người
(nhận thức, tình cảm và hành động) [3]. Hoạt động nhận
thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan ở những
mức độ khác nhau và đem lại những sản phẩm khác nhau
về hiện thực khách quan. Hoạt động nhận thức bao gồm
nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Trong hoạt động
nhận thức của con người, hai giai đoạn này có mối quan
hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau.
Như vậy, khi trẻ chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi
khác bao giờ cũng xuất hiện những đặc điểm tâm lí mới.
Do đó, khi trẻ chuyển từ bậc mầm non lên tiểu học luôn
xuất hiện những khó khăn trong hoạt động nhận thức. Bài
viết đưa ra một số biện pháp hỗ trợ hoạt động nhận thức
cho HS đầu cấp tiểu học trong dạy học Toán, giúp các
em khắc phục những khó khăn tâm lí và học tập môn
Toán hiệu quả hơn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Hoạt động nhận thức của học sinh đầu cấp
tiểu học
2.1.1. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một hoạt động quan trọng của con
người, là khởi nguồn của mọi sự hiểu biết. Nhận thức
đúng sẽ dẫn tới hành động đúng và ngược lại, nghĩa là
nhận thức định hướng cho mọi hành động của con người.
Theo Từ điển Triết học: nhận thức là quá trình tái tạo lại
hiện thực trong tư duy của con người, được quyết định
bởi quy luật phát triển xã hội và gắn liền, không tách rời
thực tiễn, nó phải là mục đích của thực tiễn, hướng tới
chân lí khách quan [4].
Theo Từ điển Giáo dục học: nhận thức là quá trình
hay là kết quả phản ánh và tái tạo hiện thực vào trong tư
duy của con người [5]. Theo L.X. Vygotsky: nhận thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của
con người, nhận thức bao gồm: nhận thức cảm tính và
nhận thức lí tính; chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau và cơ sở, mục đích, tiêu chuẩn của nhận thức là
thực tiễn xã hội [1].
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 467 (Kì 1 - 12/2019), tr 47-51
48
Như vậy, có thể hiểu: nhận thức là quá trình phản
ánh sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào bộ
óc của con người thông qua các giác quan để tạo nên
những hiểu biết về chúng. Nhận thức ở mức độ thấp là
nhận thức cảm tính, ở mức độ cao hơn là nhận thức lí
tính. Nhận thức lí tính và nhận thức cảm tính có mối quan
hệ chặt chẽ, bổ sung và chi phối lẫn nhau trong cùng một
hoạt động của con người.
2.1.2. Hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học
Trên cơ sở lí luận về hoạt động nhận thức của J.
Piaget, quá trình hình thành nhận thức của HS tiểu học
có những điểm nổi bật sau [6]:
- Tri giác của HS tiểu học. Tri giác của HS tiểu học
mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và không ổn định. Do
đó, HS phân biệt các đối tượng còn chưa chính xác, dễ
mắc sai lầm, nhầm lẫn. Ở đầu cấp tiểu học, trẻ chưa có
khả năng điều khiển tri giác, chưa có khả năng xem xét
đối tượng một cách tỉ mỉ và chi tiết, tri giác ở thời điểm
này thường gắn với hành động trực quan. Đến cuối cấp
tiểu học, trẻ đã nắm được kĩ thuật tri giác, học cách nghe,
nhìn, phân biệt được những dấu hiệu chủ yếu và quan
trọng của sự vật, tri giác dần mang tính có chủ định (trẻ
biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết
làm bài tập từ dễ đến khó,).
- Khả năng chú ý của HS tiểu học. Với trẻ ở đầu cấp
tiểu học, sự chú ý có chủ định còn yếu, khả năng kiểm
soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này ở trẻ,
chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ
định, trẻ thường tập trung chú ý đến những môn học, giờ
học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn với nhiều
tranh ảnh, trò chơi, Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu
và thiếu tính bền vững, khó tập trung lâu dài và dễ bị
phân tán trong quá trình học tập.
Ở giai đoạn cuối tiểu học, trẻ dần hình thành kĩ năng
tổ chức. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu
thế, trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong các hoạt động học
tập như: học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay
một bài hát, Trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu
tố thời gian, trẻ đã định lượng được một khoảng thời gian
cho phép để thực hiện một nhiệm vụ nào đó và cố gắng
hoàn thành đúng quy định.
- Trí nhớ của HS tiểu học. Loại trí nhớ trực quan hình
tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logic, vì ở lứa
tuổi này hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất của HS
tương đối chiếm ưu thế.
Giai đoạn lớp 1, 2, ghi nhớ máy móc phát triển tương
đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa.
Nhiều HS chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa
biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái
quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4, 5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ
được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy
nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như mức độ tập trung trí tuệ của HS, sự
lôi cuốn của nội dung bài học, hứng thú của HS,...
- Trí tưởng tượng của HS tiểu học. Trí tưởng tượng
của HS tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ
mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm
ngày càng phong phú. Tuy nhiên, trí tưởng tượng của HS
tiểu học vẫn có một số đặc điểm nổi bật sau:
+ Ở giai đoạn đầu (lớp 1, 2, 3): đặc điểm chung của
trí tưởng tượng của HS ở giai đoạn này là hình ảnh tưởng
tượng còn đơn giản và dễ thay đổi. HS đã có khả năng tái
hiện lại hình ảnh của đối tượng thực (trẻ còn bỏ sót nhiều
chi tiết), các hình ảnh được cấu trúc thường ở dạng tĩnh.
+ Ở giai đoạn sau (lớp 4, 5): Tưởng tượng tái tạo đã
bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ có thể tái tạo
ra hình ảnh mới. Ở giai đoạn này, tưởng tượng sáng tạo
tương đối phát triển, trẻ đã bắt đầu phát triển khả năng
làm thơ, làm văn, vẽ tranh, Đặc biệt, trí tưởng tượng
của trẻ trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi xúc
cảm, tình cảm. Trong quá trình tưởng tượng, số lượng
các chi tiết, sự kiện được tái tạo tăng lên đáng kể. HS đã
có thể hình dung được khá đầy đủ các trạng thái trung
gian của cả quá trình vận động của đối tượng, dù chúng
được thể hiện trực tiếp hay ngầm ẩn.
Tính chủ định trong tưởng tượng đã tăng lên cơ bản.
Điều này được thể hiện thông qua việc trẻ đã tái tạo lại
cho mình các hình ảnh dựa theo tính chất bài học của
từng môn học. Đồng thời, HS đã biết huy động trí tưởng
tượng tái tạo vào việc sáng tạo ra các ý tưởng, nghĩa là
dựa vào tưởng tượng tái tạo để phát triển tưởng tượng
sáng tạo.
- Tư duy của HS tiểu học. Theo Tâm lí học, tư duy
của HS tiểu học mang tính đột biến, chuyển từ tư duy tiền
thao tác sang tư duy thao tác. Sở dĩ có nhận định như vậy
là do trẻ trong giai đoạn mẫu giáo và đầu cấp tiểu học, tư
duy chủ yếu diễn ra trong hành động: hành động trên các
đồ vật và hành động tri giác (phối hợp hoạt động của các
giác quan). Bản chất của loại tư duy này là trẻ tiến hành
các hành động để phân tích, so sánh, đối chiếu với các sự
vật, hiện tượng. Trong giai đoạn trẻ từ 6-7 tuổi thì tư duy
trực quan hành động chiếm ưu thế, cụ thể: + HS chủ yếu
học tập thông qua phương pháp phân tích, so sánh, đối
chiếu dựa trên các đối tượng hoặc hình ảnh trực quan;
+ Việc khái quát của HS về sự vật, hiện tượng ở giai đoạn
này chủ yếu dựa vào những dấu hiệu cụ thể của đối tượng
hoặc dấu hiệu thuộc về công dụng và chức năng; + Tư
duy còn chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố tổng thể; + Tư
duy phân tích đã hình thành nhưng còn yếu.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 467 (Kì 1 - 12/2019), tr 47-51
49
Trong giai đoạn tiếp theo, đa số HS ở lớp 3, lớp 4 đã
chuyển được các thao tác cụ thể như phân tích, khái quát,
so sánh,... từ bên ngoài thành các thao tác trí óc bên trong
dựa vào các hành động với đối tượng thực. Biểu hiện rõ
nhất của bước phát triển này là HS đã có khả năng đảo
ngược các hình ảnh tri giác, khả năng bảo tồn sự vật khi
có sự thay đổi hình ảnh tri giác về chúng. Ở giai đoạn trẻ
từ 8-12 tuổi, tư duy trực quan hình tượng chiếm ưu thế,
cụ thể: + HS nắm được các mối quan hệ của khái niệm;
+ Những thao tác về tư duy như: phân loại, phân hạng
tính toán, không gian, thời gian, được hình thành và
phát triển mạnh.
2.2. Những thay đổi của trẻ trong giai đoạn chuyển tiếp
từ mầm non lên tiểu học
Giai đoạn chuyển tiếp từ mầm non lên tiểu học được
hiểu là giai đoạn bắt đầu trước khi trẻ vào lớp 1, thời điểm
bắt đầu là bước vào lớp 1 và kết thúc khi trẻ đã thích nghi
hoàn toàn với môi trường học tập mới [7].
Trong giai đoạn này, trẻ phải đối mặt với rất nhiều
thay đổi về tâm - sinh lí, về môi trường, phương pháp dạy
và học. Những sự thay đổi này có thể khiến trẻ gặp không
ít khó khăn trong quá trình nhận thức nói chung và nhận
thức trong dạy học môn Toán nói riêng.
2.2.1. Thay đổi về môi trường lớp học
Trẻ mầm non hoạt động vui chơi là chủ đạo nên
không gian lớp học được trang trí theo sở thích của trẻ.
Không gian phòng học cần rộng rãi, ít bàn ghế để trẻ
được thỏa thích vui chơi. Ở trường mầm non, trẻ được
học tập chủ yếu thông qua các hoạt động trải nghiệm, trò
chơi. Trong khi đó ở trường tiểu học, trẻ phải tập trung
chú ý trong suốt giờ học để lĩnh hội kiến thức, hoạt động
chủ đạo là học tập. HS phải đạt được các chuẩn kiến thức,
kĩ năng quy định trong chương trình, không còn khái
niệm học mà chơi như ở mầm non. Với nội dung học tập
môn Toán cùng với chuẩn kiến thức, kĩ năng như vậy đã
tạo nên không ít áp lực khiến HS gặp những khó khăn
nhất định khi bước vào môi trường học tập mới.
Với những sự thay đổi khiến HS đầu cấp tiểu học gặp
những khó khăn nhất định khi bước vào môi trường học
tập mới.
2.2.2. Thay đổi về các thói quen hàng ngày
Ở trường mầm non, những quy định chỉ mang tính
ước lệ đối với trẻ. Các nhu cầu vui chơi, học tập, ăn
ngủ, đều được thỏa mãn. Trong khi đó, ở trường tiểu
học các quy định mang tính nguyên tắc, bắt buộc. Trẻ
phải đạt được các chuẩn kiến thức, kĩ năng cho từng môn
học, từng tiết học. Điều này đã tạo nên những sự thay đổi
tâm lí của trẻ trong các hoạt động vui chơi và học tập.
2.2.3. Thay đổi về nhận thức trong học tập
Ở trường mầm non, trẻ được học tập thông qua con
đường nhận thức trực quan sinh động, chủ yếu là nhận
thức cảm tính. Trẻ được thao tác thông qua các đồ vật,
vừa chơi vừa học. Khi chuyển lên đầu cấp tiểu học, trẻ
phải học nhiều môn học với khối lượng kiến thức lớn.
Quá trình nhận thức lúc này không chỉ dừng lại ở nhận
thức cảm tính mà bước đầu hình thành nhận thức lí tính.
Tóm lại, những thay đổi trong giai đoạn chuyển tiếp
mà trẻ phải đối mặt là sự thay đổi môi trường học tập cả
về phương pháp, hình thức dạy học và phương pháp học
của trẻ, Do đó, nếu không được hỗ trợ tốt trong giai
đoạn này, khi bước vào lớp 1 trẻ dễ cảm thấy bị hụt hẫng,
biểu hiện thông qua các hành vi như: trẻ không thích đi
học, tìm lí do để trì hoãn việc đi học, khóc vào mỗi buổi
sáng khi đi học; trẻ sợ học toán, sợ phải tập viết, Chính
những biểu hiện này khiến trẻ gặp những khó khăn nhất
định khi bước vào cấp tiểu học.
2.3. Một số biện pháp sư phạm hỗ trợ hoạt động nhận
thức cho học sinh đầu cấp tiểu học trong dạy học Toán
2.3.1 . Tập dượt cho học sinh nhận biết và sử dụng ngôn
ngữ toán học
* Mục đích: giúp HS nói và viết đúng các thuật ngữ,
kí hiệu toán học được đề cập trong bài; ở các bài sau, các
em biết liên kết các kí hiệu toán học đã biết một cách
chính xác, hạn chế lỗi sai về cú pháp khi giải quyết các
vấn đề toán học; thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, kí
hiệu toán học của HS, giáo viên (GV) sẽ kiểm soát được
mức độ hiểu nội dung bài học của các em. Từ đó góp
phần nâng cao hoạt động nhận thức và phát triển tư duy
trừu tượng cho các em.
* Cơ sở khoa học của biện pháp: Ngôn ngữ có ảnh
hưởng đến sự phát triển nhận thức của trẻ. Do đó, ngôn
ngữ toán học ảnh hưởng đến nhận thức, tư duy và kết quả
học tập môn Toán của HS. Ngôn ngữ toán học là công
cụ để HS trình bày cách giải quyết vấn đề toán học và là
phương tiện giao tiếp toán học trong quá trình học tập
môn Toán. Vì vậy, việc hình thành vốn tri thức về ngôn
ngữ toán học cho HS là rất cần thiết.
* Nội dung và cách thực hiện biện pháp: Trong dạy
học môn Toán, nếu chỉ hiểu ngữ nghĩa của kí hiệu, thuật
ngữ trong ngôn ngữ toán học thì việc giải quyết các vấn
đề toán học sẽ bị hạn chế. Bởi cả hai mặt ngữ nghĩa và
cú pháp của ngôn ngữ toán học thể hiện mối liên hệ giữa
nội dung và hình thức trong toán học. Nếu chỉ chú trọng
đến mặt ngữ nghĩa thì HS sẽ không nắm được cách sử
dụng các công cụ toán học, khả năng tư duy trừu tượng
bị hạn chế; nếu chú trọng đến mặt cú pháp thì kiến thức
toán học của HS chỉ mang tính hình thức, không vận
dụng được vào thực tế [4]. Do đó, trong giờ học môn
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 467 (Kì 1 - 12/2019), tr 47-51
50
Toán, GV cần giúp HS sử dụng chính xác ngôn ngữ toán
học khi giải quyết vấn đề theo các bước sau:
Bước 1: Hình thành kí hiệu toán học. Trong ngôn ngữ
toán học, một kí hiệu có thể được diễn đạt bằng một từ
hoặc cụm từ. Nếu HS áp dụng quy tắc, cách viết như trong
ngôn ngữ tự nhiên thì sẽ không biết cách viết ngắn gọn
theo các kí hiệu toán học. Để hình thành kí hiệu toán học
cho HS, GV cần giới thiệu chi tiết cách viết, chuẩn bị bảng
phụ có ghi cách viết đúng, cách viết không đúng để HS
nhận biết, giúp khắc sâu hình ảnh về kí hiệu toán học.
Sau khi HS đã lĩnh hội được cách viết kí hiệu toán
học, GV cho HS thực hành cách viết vào bảng con, vào
vở. GV tổ chức cho HS giải quyết các vấn đề toán học có
sử dụng kí hiệu vừa hình thành và kí hiệu đã học. Từ đó,
giúp HS thấy được mối liên hệ giữa kí hiệu vừa hình
thành với các kí hiệu đã học, biết cách sử dụng kí hiệu
trong các tình huống học tập.
Bước 2: Liên kết các kí hiệu toán học. Các kí hiệu
toán học đơn lẻ được liên kết theo những quy tắc nhất
định của ngôn ngữ toán học. Ở bước này, GV cần giúp
HS biết liên kết các kí hiệu toán học theo đúng cú pháp
của ngôn ngữ toán học.
Chẳng hạn, ở các lớp đầu cấp tiểu học (lớp 1 hoặc lớp
2), HS được làm quen với bốn phép tính (cộng, trừ, nhân,
chia). Khi làm quen cách viết các phép tính, HS cần nhận
biết được dấu phép tính luôn ở giữa hai số, dấu bằng được
đặt trước kết quả của phép tính. GV đưa ra cách viết
đúng, cách viết sai để HS nhận biết và sửa lại cho đúng.
Qua đó, HS nhận thấy được cách viết phép tính là sự liên
kết của các kí hiệu toán học và tuân thủ theo quy tắc, của
ngôn ngữ toán học. Đặc biệt, khi hướng dẫn HS đặt tính
theo cột dọc, GV lưu ý về cách viết và yêu cầu HS vừa
thực hành, vừa trình bày phép tính.
Bước 3: Thực hành sử dụng ngôn ngữ toán học. GV
cần giúp HS liên kết các kí hiệu toán học. Khi thực hành
sử dụng ngôn ngữ toán học, GV cần gắn với những tình
huống toán học cụ thể để HS sử dụng linh hoạt và viết
đúng cú pháp.
Ví dụ 1: Tổ chức cho HS nhận biết và sử dụng kí hiệu
“<“ trong dạy bài: “Bé hơn. Dấu <“ (Toán 1; tr 17).
Bước 1: Sau khi cho HS hoạt động với phương tiện
trực quan để nhận biết “Ít hơn”; GV hình thành cách viết
dấu “<“ một cách chi tiết cho các em; GV giới thiệu cách
viết dấu bé hơn “<“, cho HS quan sát dấu “<“, sau đó HS
thực hành viết dấu “<“.
Bước 2: Liên kết các kí hiệu toán học. GV giới thiệu
cách viết đúng dấu “<“ luôn ở giữa hai số.
GV giới thiệu các kí hiệu toán học để được một kết
quả có nghĩa: (số bé) (dấu <) (số lớn). Chẳng hạn với “1
bé hơn 2”, viết: “1 < 2”.
Bước 3: Thực hành sử dụng ngôn ngữ toán học. GV
đưa ra phát biểu và HS thực hiện chọn, sắp xếp đúng theo
các kí hiệu toán học. Chẳng hạn, GV phát biểu “số một bé
hơn số hai” thì HS cần viết đúng là 1 < 2. Sau đó, GV tổ
chức cho HS hoạt động theo cặp đôi, 1 HS phát biểu bằng
lời và 1 HS viết kí hiệu, sau đó đổi nhiệm vụ cho nhau.
2.3.2. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng ngôn ngữ
toán học trong dạy học giải Toán
* Mục đích của biện pháp: Giúp HS sử dụng hiệu quả
ngôn ngữ toán học trong quá trình giải toán; góp phần
phát triển ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ toán học nói
riêng; biết chuyển dịch từ ngôn ngữ tự nhiên, hình ảnh,
hình vẽ trực quan sang kí hiệu toán học.
* Cơ sở khoa học của biện pháp: Mục tiêu của môn
Toán ở lớp 1 là hình thành và rèn luyện khả năng sử dụng
ngôn ngữ toán học cho HS nhằm rèn luyện cho các em
khả năng diễn đạt bằng lời nói, chữ viết chính xác; thể
hiện và phát triển nhận thức, bước đầu có khả năng phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, cụ thể hóa. Rèn luyện cho
HS kĩ năng sử dụng ngôn ngữ toán học chính là giúp các
em diễn đạt các vấn đề trong toán học và trong cuộc sống
ở mức độ mạch lạc và tường minh. Điều này góp phần
hỗ trợ phát triển nhận thức của trẻ.
* Nội dung và cách thực hiện biện pháp: Giải quyết
vấn đề đơn giản không chỉ giúp HS phát triển tư duy mà
còn củng cố kiến thức, rèn luyện và phát triển ngôn ngữ
toán học. Khi giải quyết vấn đề đơn giản, HS phải huy
động kiến thức đã biết để tìm ra cách lí giải, sử dụng ngôn
ngữ toán học để trình bày cách giải sao cho chính xác,
logic và chặt chẽ. Biện pháp đưa ra các bước rèn luyện
cho HS sử dụng ngôn ngữ toán học trong dạy học giải
toán ở các lớp đầu cấp tiểu học gồm:
Bước 1: Tìm hiểu nhiệm vụ/bài toán. GV tổ chức cho
HS đọc kĩ đề bài v